Xe xuất phát từ Viện khoa học xã hội Việt Nam. Đoàn có anh Nguyễn Ngọc Thanh, Viện phó Viện Dân tộc học, anh Nguyễn Hải Đăng, em Lê, em Hà ở Viện dân tộc học, thêm mình với em Lê Thị Dương – Viện Văn học và anh Tùng (giảng viên của đại học Hồng Đức). Đi đường Hồ Chí Minh, qua Hà Đông, rẽ vào đường đi Chùa Hương, qua đập Tràn (gọi đập tràn vì một bên đường có bờ kè cao hơn đường, nước cao mấp mé kè, gần như tràn xuống đường. Từ đường này rẽ trái đi ra đường Hồ Chí Minh. Xe đi qua địa phận của Ninh Bình, qua huyện Nghĩa Đàn, huyện Tân Kỳ, Anh Sơn rồi mới tới Con Cuông. Trời se lạnh, mưa lâm thâm. May là đến đất Nghệ An trời hết mưa.
Đường Hồ Chí Minh thưa vắng, trập trùng đồi núi. Hai bên đường chỉ có những ngôi nhà sàn lẻ loi và bạt ngàn ngô, sắn… Người dân cũng thường tận dụng lề đường để phơi sắn xắt.
Xe đi khá chậm, nghỉ lại ở Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Anh Sơn. Tới 5 giờ chiều mới về đến nhà khách của UBND huyện Con Cuông. Mình hơi mệt vì ngồi trên xe cả ngày, hơn nữa vì cảm giác buồn bã xâm chiếm mấy hôm nay. Tối tắm rửa rồi chuẩn bị cho cuộc làm việc ngày mai với UBND.
Ngày 16 tháng... năm 200...
Sáng. Làm việc với UBND. May là mình không phải chạy việc giấy tờ gì. Chỉ ngồi chờ để gặp mấy người mà cũng phát chán, đến ngáp dài ngáp ngắn. Gặp được anh Đức trưởng phòng văn hóa huyện cũng khá nhiệt tình, xin được 2 cuốn sách về Con Cuông. Gặp mấy người ở phòng tài nguyên và phòng nông nghiệp. Chiều làm việc với bên Ban quản lý vườn quốc gia Pù Mát. Mình được giao phỏng vấn phiếu một người thuộc nhóm quản lý rừng Pù Mát mà phát bực lên vì phiếu thiết kế quá chán, không phù hợp để lấy thông tin cho chính xác. Cả ngày không thu được cái gì thú vị làm mình cảm thấy mệt hơn. Trời lạnh hơn vì có đợt không khí lạnh mới. Đoàn định ngủ lại trong khu vực ban quản lý vườn quốc gia Pù Mát nhưng cuối cùng lại ra nhà khách nghỉ tiếp 1 đêm nữa,
Ngày 17 tháng ... năm 200...
Đoàn đi vào xã Môn Sơn, được coi là xã điểm của huyện Con Cuông. Môn Sơn cách thị trấn 20km, đường dễ đi. Vào đến UBND xã thì đi vắng hết, lại chẳng làm việc được luôn. Chị Vi Thị Tứ, làm ở văn phòng tiếp đón rất nhiệt tình, dẫn mọi người đến nhà một gia đình trong xã để ở lại. Nhà cụ Vi Văn Tưởng có 2 ông bà với một cô con dâu và một đứa cháu nhỏ. Ở nhà sàn mùa này hơi lạnh. Mình còn nhớ cảm giác gió lùa thun thút hôm đi lễ hội Mường Ham ở Quỳ Hợp hồi đầu năm.
Chiều. Tập trung được bà con ở nhà bà trưởng bản bản Thái Sơn. Lần đầu tiên thấy một phụ nữ làm trưởng bản. Ban đầu mình nghĩ chắc bà này phải uyên bác hay chuyện lắm. Sau khi phỏng vấn xong được 3 người dân, mình vào ngồi bếp lửa lân la hỏi chuyện. Nhưng không ăn thua. Bà ấy mới 46 tuổi, cũng không biết gì nhiều về văn hóa Thái.
Theo mọi người nói thì người ở thôn này chủ yếu là Tày Thanh. Tày Mường tập trung ở Thái Hòa.
Ngày 18 tháng ... năm 200...
Một ngày làm việc khá hiệu quả. Sáng, cả đoàn tập trung ở Nhà văn hóa cộng đồng bản Thái Sơn. Bà con kéo đến rất đông và mọi người phỏng vấn được một nửa số phiếu cần thiết cho cả chuyến đi (75 phiếu). Mình tranh thủ phỏng vấn sâu được mấy người.
Có thu thập được mấy câu tục ngữ dự báo thời tiết của người Thái ở bản Thái Sơn, xã Môn Sơn:
- Ngứa đầu thì trời sắp nắng
- Kiềng đen thì sắp mưa, kiềng trắng thì sắp nắng (kiềng lăm khắm phân, kiềng may khắm lẹt)
- Cóc kêu thì trời chuẩn bị mưa (cà tù hoọng phạ khắm phân) tương đương câu: Cóc kêu uôm uôm/ Ao chuôm đầy nước
Một số kinh nghiệm xem thời tiết:
- Thấy con chong chóng[1] kêu thì biết trời sắp mưa lớn.
- Nếu cây rì rì có rễ chuyển sang màu đỏ thì sắp có lụt to
- Nếu thấy bầy chim “noộc ràng” – màu trắng bay đầy trời thì sắp có bão lụt.
- Nếu thấy con gà bay lên ngọn cây cao để ở là biết trời sắp nắng
- Nhìn ngọn đồi Pù Bon, nếu thấy sương sa xuống (hoặc nhiều mù) là biết trời sắp mưa.
- Nếu buổi sáng, nhìn đằng đông thấy trời có màu đỏ tía thì sắp có giông tố, lốc.
- Nếu cây hoa bi trổ hoa đều khoảng 5 – 7 ngày thì sau đó sẽ có mưa to.
- Nếu thấy có nhiều kiến bò ngang đường là trời sắp mưa
Chiều. Bản Thái Sơn họp nên mọi người chuyển sang làm ở nhà dân. Chọn nhà của ông Dậu ở đội 5 để tập trung bà con. Nhà mất điện, trời lại rét nên mọi người chủ yếu tập trung gần bếp lửa để vừa điều tra phiếu, vừa phỏng vấn sâu. Mình hỏi được một số thông tin về tín ngưỡng và kiêng kị của người Thái ở đây.
Người Thái ở đây chỉ có một nỗi ám ảnh về các loại cây mà họ gọi là cây ma.. Đó là dây “chợ lẻ” – một loại dây leo trong rừng thường có nhiều dây cuộn vào nhau, to bằng bắp tay hoặc hơn. Người ta nói nếu lỡ tay chặt phá loại dây rừng này thì về nhà sẽ bị ốm hoặc bị điên, có thể phải mấy năm sau mới phát. Nếu ai lỡ động tay vào thì phải về nhà giết một đôi gà (1 trống 1 mái, 1 đỏ 1 trắng) để mời thầy mo đi ra cây mà cúng xin trả lễ cho thần cây. Ông thầy mo sẽ phải đi cùng với người lỡ chặt cây tới tận cái cây ấy, nói rõ cây đang đứng ở vùng nào, đường nào, lối nào mà xin cho đúng. Người ta gọi hành động này của ông mo là hú vía trả lễ. Có người cho rằng cây “chợ lẻ” có mủ độc. Khi chặt, nếu không để ý sẽ bị mủ dây vào người, thấm vào người rồi dần dần phát bệnh.
Loại cây thứ hai bị coi là cây ma là cây “náng tằng” (cây ghế ngồi). Cây này rất to, thường có rễ cuốn ở gốc tạo thành hình như cái ghế. Nếu người nào đi rừng, mệt nhọc quá mà lỡ ngồi vào “cái ghế” ấy hoặc lỡ tay chặt cành của nó thì về nhà sẽ bị ốm (thường là phát bệnh thần kinh).
Người ta cũng kiêng chặt phá những cặp cây sống cạnh nhau và có thân quấn xoắn xuýt vào nhau. Nếu lấy gỗ ấy làm nhà thì nhà cửa không yên, người động vào cây sẽ bệnh tật, ốm yếu.
Ngày 19 tháng... năm 200...
Một ngày làm việc cực kỳ hiệu quả. Mình thấy vui nhất là gặp được một số chuyện liên quan đến luận án của mình. Cả ngày chỉ đi phỏng vấn sâu. Sáng phỏng vấn 2 người, chiều phỏng vấn 2 người. May là mình gặp được những người hiểu biết cả.
Sáng. Tiếp xúc với ông mo Vi Kim Sinh, 74 tuổi. Theo ông, trong rừng có rất nhiều ma cây, gồm có:
- Ma xi éo (ma của 2 cây quấn vào nhau, cứ kêu cót két)
- Ma “chợ lẻ”
- Ma “chợ lẻ náng tằng”: cũng là dây chợ lẻ nhưng phần gốc quấn cuộn như cái ghế.
- Ma “thau khót” (bẫy của ma): là một cái dây rừng (có thể to hoặc có thể rất nhỏ) mọc theo kiểu thắt nút. Gốc và ngọn không thể nào tháo ra được cái nút thắt ấy.
- Ma sông, ma suối: (cháu nặm bằng pa)
- Ma rú ma rừng (cháu pù nàng pha)
- Ma khe ma suối (cháu hối cháu hoóng)
Ông Sinh kể tuần tự việc cúng các loại ma này như sau:
Cúng ma “chợ lẻ”:
- Ông mo cầm cái áo của người ốm đến dưới gốc cây “chợ lẻ”, đi cùng là 1 người dẫn đường (trong trường hợp không nhớ ra cây ở đâu thì cúng ở nhà)
- Lễ vật: 1 con chó sống (để cho ma cây) chặt ra 4 phần; 1 con gà đã nấu chín (lễ vật cho thần Đất – cháu lín); 2 chai rượu cho thần đất và ma cây; 1 tấm vải; 1 ít tiền hoặc vòng tay vòng cổ cho ma cây; cơm hoặc xôi: 4 bát.
- Ông mo mời thần đất đến chứng cho cuộc cầu cúng này vì thần đất là người thông thạo cả vùng, là chủ còn ông mo chỉ là khách. Không mời thần đất thì không xong. Ông cũng phải nhờ thần đất gọi ma cây đến. Ông mo dùng hai đồng tiền âm dương để xem thần đất có đến hay không. Phải gieo 2 lần liên tiếp đều được 1 sấp 1 ngửa thì mới xong. Hỏi xem ma cây đến chưa cũng bằng cách tương tự. Nếu gieo mà 2 đồng đều ngửa là ma cười, 2 đồng đều sấp là ma ghét.
- Sau khi ma đến, ông mo cúng trình bày với ma, con cháu đi rú đi rừng, động đến ma, ma dắt vía nó đi, giờ có chút ít lễ mang đến đây, xin ma trả vía cho nó.
- Sau khi đợi hương tắt thì đem lễ về.
Cúng ma sông ma suối thì lễ vật là: 2 con gà; rượu, một tấm vải, một ít tiền hoặc vòng tay vòng cổ. Nếu ta đi sông mà tự nhiên giật mình là vì ma sông ma suối bắt mất vía, phải về nhà cúng để xin vía.
Ngoài ra, cúng các ma khác cũng làm tương tự. Lễ vật đều là gà chỉ có ma “chợ lẻ” là thích thịt chó sống.
Chiều. Phỏng vấn ông Vi Xuân Bình, 87 tuổi. Ông nói thêm mấy loại ma:
- Ma núi (phí pụ phí pha)
- Ma nước, ma khe (phí nặm phí huổi phí hoóng)
- Ma rừng (phí va cạp): ma cũng có làng bản như người, nhưng người không trông thấy được, nếu lỡ động đến bản của ma sẽ bị ma bắt vía.
- Ma cây đa (phí cò bá)
Ông Hà Văn Phán, 79 tuổi thì cho rằng có mấy loại ma nữa:
- Ma rừng ma rú (phí pù phí pà)
- Ma con càng cỏi (Phí ca già háng càng cỏi): con càng cỏi là con giống con khỉ nhưng nhỏ như con mèo, sống trong rừng, có ma thuật để giết người nên người ta rất sợ. Ma càng cỏi thường theo mùi muối trong lửa để tìm ra con người. Đi rừng, người ta kiêng bỏ muối vào lửa vì sợ con càng cỏi đến. Nếu lỡ để nó nghe thấy mùi mà tìm đến, nó sẽ kêu “càng cỏi” rồi mò đến bếp lửa, không thể nào đánh được vào nó vì nó thoắt ẩn thoắt hiện. Nó thường che mặt của nó và nếu nó rút que củi trong bếp ra thì con người ở gần đấy sẽ bị rút ruột mà chết, vì nó có ma thuật. Lúc ấy, người ta thường khấn xin thần rừng, xin thần uống tạm bát nước chè rồi kêu con càng cỏi về, tha cho con cháu.
Mình sưu tầm thêm được một số câu tục ngữ về dự báo thời tiết:
- Trời sắp mưa mặt trời không đỏ
Trời nắng khô thì bản của anh mất mùa
(Phạ lọ phân tà nghiềng bó chánh
Phạ lẹt lẹng mường ái xìa mua)
- Chồng và vợ khóc khản cổ
Khóc đến trời mà trời không mưa
(Phụa tậng mịa choọng khò nắng háy
Háy ha phạ phạ bó phân)
Ngày 20 tháng ... năm 200...
Đêm qua mình có một giấc mơ rất lạ. Mình nhìn thấy một cơn lốc (có hình giống y chang một cái đồng hồ cát, trong veo) đến. Lúc đó, mình đang ở trong một nhà cao tầng, cơn lốc bay qua, chạm vào mọi thứ và gây đổ vỡ, rồi nó lướt qua mình, chạm vào mình, nhẹ bẫng! Cảm giác khi cơn lốc ấy chạm vào mình thật lạ! Dù mở mắt dậy và rất băn khoăn về giấc mơ, nhưng mình cũng ko dám suy nghĩ nhiều đến nó, phải tập trung làm việc nốt trong ngày hôm nay.
Đêm qua, cả hội năm rúc rích mãi, không ngủ được vì xếp T. ngáy quá to. Hic, đúng là như voi gầm. Hai ông bà chủ nhà cũng ko ngủ được, thức dậy đi đi lại lại cùng với anh Đăng. Mọi người càng cảm thấy buồn cười tợn. Đồng chí ấy đang say sưa ngáy, nghe tiếng cười, cáu quá bèn dậy lôi đèn pin đi xuống ô tô ngủ. Được yên tĩnh ngủ một lúc, bỗng nhiên nghe tiếng gà gáy xôn xao. Hình như gà của cả bản đều thức dậy và gáy. Mình nói với mọi người, chết thật, hôm nay vừa nghe mấy người già bảo, gà gáy lúc nửa đêm như thế là có điềm ko lành. Lại xuýt xoa lo lắng. Cuối cùng, cả bọn đồng ý phải xuống gọi xếp T. lên nhà sàn ngủ, ko ngủ một mình dưới xe nữa. Chắc là xếp rất vui, vì thấy mấy đứa lo lắng, dù xếp lên ngáy thì cả bọn lại thức ngủ chập chờn. Giấc mơ đến với mình trong một cơn chập chờn như thế.
Từ tối qua khi hội ý, mình đã thông báo với anh Thanh là sáng mai mình sẽ qua bản Cằng gặp ông Lương Nghiệp – một nghệ nhân dân gian có tiếng trong vùng. Bản Cằng cách bản Thái Sơn khoảng 3 km. Anh Thanh bảo ngày mai sẽ cho ô tô đưa mình đi. Sáng nay lại nghe anh Thanh bảo sẽ đi cùng, với em Dương nữa. Càng vui!
Ông Lương Nghiệp là một nghệ nhân dân gian thực thụ. Mình ít thấy người Man Thanh nào tài hoa như ông. Người Thái ở đây chủ yếu là người Man Thanh (họ tự phân biệt họ với người Tày Mường hay còn gọi là người Hàng Tổng). Người Tày Mường thường cầu kỳ hơn trong phục trang và các nghi lễ. Cung cách của ông Nghiệp khiến mình nghĩ tới chú Sầm Bình ở Quỳ Hợp. Rất điềm tĩnh và nhẹ nhàng. Ông Nghiệp đã hơn 50 tuổi nhưng tóc còn xanh, gương mặt nét như tranh vẽ. Ông tự làm nhiều loại nhạc cụ (đàn tập tính, sáo, nhị). Ông chơi thử mấy bài và mời một cô đang có mặt ở nhà ông hát dân ca Thái. Tiếng đàn, tiếng hát làm mọi người bị thu hút rất nhanh. Cả mấy đứa trẻ con đang chơi ngoài sân cũng chạy vào tròn xoe mắt nhìn, không biết chúng nhìn những người lạ với lỉnh kỉnh ba lô, máy móc trên người hay nhìn ông Nghiệp đàn.
Ông Nghiệp rót rượu mời mình với anh Thanh (em Dương đi phỏng vấn dân xung quanh). Người Thái cứ có khách đến nhà là phải rót rượu. Ơn trời, mình có tửu lượng khá nên uống vô tư. Chuyện của ông Lương Nghiệp cũng khá thú vị. Nhưng điều thú vị hơn là mình cảm nhận rõ chút khác biệt trong hiểu biết của người bản Cằng với người bản Thái Sơn. Có lẽ nào, ở miền rừng núi này, chỉ cách nhau 2 – 3 cây số thì người ta cũng đã có những trải nghiệm văn hóa khác nhau rồi, dù họ cùng một dân tộc?
Ông Nghiệp cũng giới thiệu với mình về bà mo một – bà Nguyên ở Lục Dạ. Người Thái ở đây phân biệt mo một và mo mồn. Mo một thường là phụ nữ, vì họ dùng sức mạnh của lời ca và tiếng sáo để đuổi tà ma, nghĩa là họ chọn cách ngọt ngào, nhẹ nhàng để dẫn đường cho hồn vía hoặc đuổi tà ma. Mo mồn thì ngược lại, luôn là đàn ông. Mo mồn dùng sức mạnh của âm binh, của gươm giáo để đuổi tà ma. Ngoài ra còn có mo tằng dạo – chuyên cúng cho người chết và mo bói – chuyên bói áo.
Vì lời giới thiệu của ông Nghiệp, mình có kế hoạch luôn cho buổi chiều, dù sao thì chiều nay mình cũng chỉ mới có một cái hẹn với một gia đình ở cuối bản. Tối qua, phải đi bộ từ nhà ấy về, qua một cánh đồng rộng, mình cũng thấy hơi sợ. May mà trên đường gặp hai cô bé đang đi đến nhà bà để ngủ, mình bắt chuyện rồi đi cùng. Đi miền núi nhiều rồi, nhưng mình toàn làm về mảng bùa chú, nghi lễ nên cũng hơi rợn khi phải đi một mình trong bóng tối, trên con đường chỉ mới đi qua một lần.
Trưa, mình chẳng được ngủ tí nào. Về nhà ăn cơm xong thì đã sắp đến giờ phải đi. Nhà mo Nguyên còn xa hơn, ở xã Lục Dạ. Anh Đăng bảo mình phải đem cái giấy giới thiệu đi mà làm việc cho dễ, nhưng mình thấy không cần. Dù đoàn mình đăng ký công tác ở xã Thái Sơn nhưng mà mình có làm việc với xã đâu, mình làm việc với dân, với những người cụ thể thì họ đâu có phân biệt gì. Họ đều là người Thái ở vùng rừng núi hoang vu này cả thôi. Phân biệt xã này xã kia chỉ là chuyện hành chính.
Anh Thanh cho lái xe đưa mình đi sang xã Lục Dạ, tìm nhà bà mo Nguyên. Vì bà này nổi tiếng nên chỉ phải hỏi đôi lần là mình tìm được đến nhà. Mình hỏi đúng ngay vào cháu nội của bà – một cậu thanh niên khá sáng sủa, hiền lành. Cậu ấy bảo bà già rồi, chỉ ở nhà một mình thì hơi khó. Mình bảo, ko sao, chỉ cần nói chuyện với bà là được. Cậu ấy có vẻ ái ngại khi thấy mình hăm hở như thế. Mình hơi khó hiểu. Cậu ấy đang đứng với mấy người bạn, hình như định đi đâu đó. Mình nói chỉ cần chỉ đường vào nhà là được, cậu ấy cứ đi với bạn đi. Cậu ấy đi xe về nhà trước, mình cuốc bộ theo sau. Bà mo Nguyên đã 95 tuổi, rất còng. Bà nói chuyện với mình bằng thứ tiếng Kinh khó hiểu. Thì ra đó là mối lo ngại của cậu cháu. Có lúc, bà lại tuôn một tràng tiếng Thái với mình. Mình nghe lõm bõm, ko hiểu gì hết. Đành phải nhờ cậu cháu dịch hộ. Học tiếng Thái mãi cũng chỉ lõm ba lõm bõm, chán thật! Tiếng Thái của người ở đây cũng giống người Thái ở Quỳ Hợp, nhưng nặng hơn tiếng Thái của người Thái Tây Bắc, mình chỉ cảm nhận được như thế.
Tầm 3 giờ chiều, mình gọi cho xe đến đón về. Qua nhà ông bà Phán ở cuối bản nhưng chỉ có mỗi bà già ở nhà, đang ngồi bên bếp lửa xâu cau tươi vào dây để dành. Mình ngồi nói chuyện một lúc, thấy ko có thêm thông tin gì nên lại cuốc bộ về. Đi qua cánh đồng, thấy rất nhiều chim én, người ta đứng đầy đồng dăng lưới bắt. Hôm qua, nghe ông chủ nhà nói có người bắt được hơn một bao tải.
Lần đầu tiên mình về nhà sớm nhất hội. Chui vào bếp lửa ngồi, ngồi đến tối mịt, đến nỗi lúc đứng dậy, bàn tay mình toàn mùi khói. Mình về sớm nên phải nấu cơm, đau khổ! Được cái ngồi bếp lửa cũng ấm. Đang ngồi bếp thì thấy có một con chim én bay loạng choạng vào nhà. Cả nhà xông vào bắt mà ko được, một lúc sau thì thấy con mèo vẫn nằm lười bên bếp ngậm được con chim. Không hiểu nó bắt được lúc nào. Bà già bảo đứa cháu trai, ra xin mèo đi. Thằng bé túm chặt con mèo, cướp con chim khỏi miệng nó. Bà già vặt lông, cho vào bếp lửa nướng luôn. Tội nghiệp con chim, nó gầy trơ xương, có gì đâu mà ăn nó.
Đến tối mịt mới thấy mọi người lao xao dưới nhà, về đông đủ. Hôm nay mình mệt rã rời, ăn xong là leo tót lên giường nằm quấn chăn. Phải tranh thủ ngủ lúc xếp T. chưa đặt lưng xuống.
[1] Con chong chóng: một loại côn trùng có cánh, có tiếng kêu như con ve
Ảnh: ông Lương Nghiệp
Bà mo Nguyên
Chiều miền núi





No comments:
Post a Comment