Thursday, June 5, 2014

"Mười hai năm nô lệ" - ánh sáng tâm hồn dưới lằn roi kí ức

Cuối năm 2013, bộ phim Mười hai năm nô lệ của đạo diễn Steve MacQueen được công chiếu tại Mỹ và nhanh chóng gây được tiếng vang lớn. Phần đông khán giả Mỹ - bằng những xúc động mạnh mẽ được khơi lên từ những thước phim đắt giá đã nhận định ngay rằng bộ phim này chắc chắn sẽ đoạt giải Oscar mà không cần đến bất kì kinh nghiệm chuyên môn nào về phim ảnh. Quả nhiên, sức lay động của bộ phim đã giúp nó giành được giải thưởng cao quý nhất: Giải Oscar cho phim xuất sắc nhất. Xúc cảm vẫn là yếu tố hàng đầu trong mọi đánh giá về nghệ thuật, hay nói đúng hơn, nó là yếu tố vượt ra ngoài mọi khung điểm chuyên môn, bao trùm lên toàn bộ các yếu tố mang tính kĩ thuật. Vậy, điều gì đã khiến cho bộ phim có thể chạm đến trái tim của hàng triệu người xem, đã khiến nước mắt phải rơi trên những khoé mi khô khan nhất?
    Tôi - người đã nấc nghẹn suốt hơn hai giờ đồng hồ xem phim có thể dựa vào chút mẫn cảm tự nhiên mà đồ rằng: đó là vì những dòng chữ đầu tiên trên màn hình: bộ phim dựa trên câu chuyện có thật của một người nô lệ - Solomon Northup. Không có gì thuyết phục ta hơn sự thực. Và dĩ nhiên, không có gì lay động tâm tư ta hơn một câu chuyện có thật từ một đồng loại khổ đau. Đó cũng là lí do mà tôi vẫn tiếp tục tìm đến cuốn tự truyện của người nô lệ Solomon Northup, hầu mong được gần gũi hơn một linh hồn sầu khổ tội nghiệp - người đã bị đánh cắp tự do và bị biến thành thân nô lệ cả quãng đời 12 năm.
    Lẽ thường, những người yêu sách vẫn thường thất vọng với những cuốn phim chuyển thể từ sách. Đơn giản là bởi trong khi sách mở ra bao la những tưởng tượng và hồi âm mang tính cá biệt của từng độc giả thì phim dường như lại đóng khuôn cảm xúc của người xem vào một lựa chọn thể hiện. Trong trường hợp của Mười hai năm nô lệ, tôi không muốn đặt ra bất kì so sánh nào giữa truyện và phim, bởi lẽ, bộ phim đã thực sự gây dựng được một không khí quánh đặc bất công của chế độ nô lệ, với những cảnh quay đặc tả và ám gợi. Ở đó, ta đã gặp một lựa chọn thể hiện xuất sắc của đạo diễn. Tuy nhiên, tính chất tự truyện của cuốn Mười hai năm nô lệ vẫn gây hấp dẫn cho bất kì ai muốn đến gần hơn nữa với sự thực. Cuốn sách là lời tự sự bằng những dòng hoài niệm của chính người nô lệ Solomon Northup. Những hồi ức kinh hoàng, tủi nhục của đời nô lệ được viết ra bằng chính máu và nước mắt của người kể và người cầm bút một mặt khiến ta thấm thía hơn sự thực đắng cay của một số phận, mặt khác, vẫn chừa lại những khoảng trống giữa dòng để trí tưởng tượng và cảm xúc của độc giả có cơ hội thăng hoa trong đồng điệu. Những khoảng mở quý giá dành riêng cho độc giả như thế, chúng ta không thể tìm thấy ở nghệ thuật điện ảnh - nơi bắt buộc ta phải chú tâm vào diễn biến câu chuyện theo từng cú máy, từng khoảnh khắc phim.
    Cuốn tự truyện là lời kể điềm đạm và giản dị của Solomon Northup về quãng đời mười hai năm nô lệ của ông - dưới cái tên cụt lủn không họ không nguồn - Platt. Nội cái tên cộc lốc mà bọn buôn người đã sỗ sàng dúi vào Solomon nhằm lấp liếm cái tên họ Solomon Northup có nguồn cơn căn cớ hẳn hoi của ông đã nói lên rất nhiều điều về chế độ nô lệ. Cái tên cộc như tên gọi một con vật không hơn. Cái tên trơ trọi nhõn một âm như ép buộc người ta cắt đứt hết mọi ràng buộc với thế giới con người và những quan hệ tự nhiên của con người: gia đình, cha mẹ, vợ chồng, con cái. Cái tên cô độc bơ vơ phải nhận gạo đã nói lên thực tế khắc nghiệt rằng, kiếp nô lệ không cho phép sở hữu bất kì cái gì, kể cả cái tên. Những người nô lệ bị bóc lột đến tận cùng xương tuỷ và tinh thần, bị dứt lìa khỏi mọi ràng buộc xã hội, bị lột truồng nồng nỗng mọi sở hữu tinh thần dưới con mắt soi mói kiếm chác của bọn chủ nô. Có lẽ ý thức về tất cả những điều đó, con người từng hưởng thụ tự do - Solomon đã kiên quyết chối từ cái tên Platt cho đến khi ngộ ra, ông đã bị đẩy xuống một thế giới khác - ở đó, phản kháng đồng nghĩa với đòn roi.
    Câu chuyện tưởng như là đơn tuyến với nhân vật chính là người kể chuyện và một kết cấu sáng rõ có đầu có đuôi, nhưng kì thực, cuốn tự truyện ấy đã mở ra bao nhiêu trang đời khác nhau với tính chất đa tuyến phức tạp như thực tế cuộc đời. Những mảnh đời nô lệ - những người đã chia sẻ một quãng sống đau đớn nào đó cùng Platt - là những mảnh đời dạt trôi vô định. Dù người kể chuyện đã cố gắng theo sát, quán xuyến một số mảnh đời bằng kí ức, tin đồn để mô tả sao cho trọn vẹn, nhưng còn vô số những cái tên chỉ được nhắc đến dăm ba lần rồi mất hút trong điệp trùng những chữ nghĩa khổ đau, điệp trùng máu và nước mắt. Người mẹ nô lệ khốn khổ Eliza cuối cùng đã chết mỏi mòn trong nhớ thương hai đứa con thơ dại, nhưng còn chúng - cậu bé Randall nhanh nhẹn và cô bé Emily xinh đẹp kia đã sống đời nô lệ ra sao sau khi bị dứt lìa khỏi mẹ? Cô nô lệ tươi tắn Patsey bị dập vùi không thương tiếc bởi lão chủ nô dâm đãng và bà vợ ghen tuông rồi đã gánh tiếp đòn roi thế nào khi không có Solomon ở bên đỡ đần? Đời họ rồi đi về đâu, Solomon không biết và cũng chẳng ai hay biết? Lịch sử cũng chỉ nhắc nhớ họ bằng cái tên chung khốn mạt của thời đại khốn mạt ấy: người nô lệ. 
     
    Mạch truyện đi theo dòng thời gian tuần tự giản dị: trước - sau nhưng vẫn có những nếp gấp khó cưỡng của những cú ngoái lại quá khứ và những khúc quanh bởi những pha đón bắt thì tương lai. Những ngoái lại và đón bắt ấy diễn ra tự nhiên bởi những nguyên do xúc cảm của người kể chuyện chứ không hề là trò tiểu xảo viết lách. Bởi lẽ, cuốn sách được viết theo thể loại tự truyện nên bản thân câu chuyện đã là cả một sự ngoái lại bằng hoài niệm và kí ức. Trong trường ngoái lại ấy, với những thảng thốt kinh hoàng khi nhận ra mình bị bắt cóc, với những phẫn nộ, ai oán khi bị rơi vào tay những kẻ chủ nô tàn độc, với những ấp iu hy vọng và vô số những cảm xúc khác, người viết khó có thể nén nỗi xúc động để câu chuyện tự diễn biến mà không có bất kì can thiệp xúc cảm nào. Nhưng cũng nhờ vào lối kể tự nhiên, chân thật ấy, Solomon đã khiến độc giả được gần gũi hơn và cảm thấy mến mộ con người ông. Ngay trong những trang đời đau đớn nhất, Solomon cũng không để người đọc phải tụt xuống hố thẳm của tuyệt vọng (như ông đã từng) bằng lối kể đón bắt tương lai. Đâu đó, trong những nỗi khổ đau cùng cực, ta vẫn thấy lấp lánh ánh sáng tự do, tình yêu công lí và đức tin vào Chúa Trời. Có lẽ những điều đó đã nâng đỡ Solomon trong quãng đời tăm tối nhất của ông cho nên, trên trang viết, ánh sáng của những sức mạnh tinh thần ấy lại soi rọi từng con chữ, nâng đỡ chính những linh hồn độc giả đang mò mẫm sống lại quãng sống cực nhọc của ông. Đọc Mười hai năm nô lệ, người đọc không chỉ đồng cảm với một kiếp ngựa trâu mà hơn thế, còn cảm thấy được kiếp người ấy hiến dâng cho mình một bài học lớn về đức tin và lòng hướng Thiện, nỗi khao khát tự do.
     Trong những lời kể thành thực và cảm động của mình, Solomon đã vẽ nên bức hoạ chi tiết về chân dung người nô lệ - những người làm bạn với đòn roi, ốm đói và kiệt sức nhưng vẫn không thôi khao khát tự do, không thôi nung nấu ý định chạy trốn và giấc mơ được sống ở nơi thiên đường không nô lệ Bắc Mỹ. Cũng trong những lời kể ấy, ông đã vẽ nên chân dung những gã chủ nô với những đường nét không đồng nhất, bởi có người chủ nô được ông kính mến chân thành, có người chủ nô ông khinh ghét cùng cực. Điều đó càng cho thấy, Solomon đã hoàn toàn để trái tim dẫn dắt những hồi ức của mình. Không phải vì là một nạn nhân của chế độ nô lệ hà khắc mà ông gộp tất cả bọn chủ nô vào một rọ độc ác. Ông kể về những người chủ tốt của mình với một cái nhìn chiêu tuyết, vì ông tin rằng, nếu họ sống trong một môi trường khác, Thiện tính của họ sẽ được phát huy.
    Dù câu chuyện được viết nên khi Solomon đã trở lại làm người tự do, nhưng những lằn roi nô lệ vẫn hằn lên trên từng trang viết, ám ảnh khôn nguôi. Khi mô tả khoảng cách không gian, tác giả dùng hình ảnh roi da làm định lượng: “Xưởng dệt mà chúng tôi đang xây cất nằm giữa một vườn cây ăn quả cách dinh cơ Chapin, còn gọi là “nhà lớn”, vài sải roi da” (trang 97) Có lẽ, chính ông cũng không ý thức được những lằn roi ấy đã ăn sâu vào tiềm thức của chính mình. Và dù may mắn thoát khỏi vòng nô lệ, dù được quay trở về với gia đình sau mười hai năm sức cùng lực kiệt trên những cánh đồng bông, cánh đồng mía, dưới làn mưa roi tàn bạo, dù vẫn nuôi trong lòng ánh sáng của công lí, lẽ phải và tự do nhưng trong thẳm sâu người nô lệ ấy vẫn nhức nhối nỗi đau chung cho kiếp sống bất hạnh của đồng loại mình. Tôi tin những giấy tờ, văn tự mà Solomon trưng ra trong cuốn sách không chỉ nhằm xác thực những thông tin trong cuốn tự truyện mà còn bởi sự thôi thúc chứng minh bằng chứng tự do của chính ông - người đã bị biến thành “động sản” của đồng loại chỉ sau một đêm bị cướp sạch giấy tờ. Những giấy tờ ấy với tôi cũng là những vết hằn của đời nô lệ.
    Với Mười hai năm nô lệ, có lẽ không có cách nào tốt hơn là đọc và tự chiêm nghiệm. Có thể bạn cho rằng, chế độ nô lệ đã lùi xa, câu chuyện của một người nô lệ thì có gì đáng kể? Nhưng bạn ạ, đọc đi rồi sẽ thấy, biết đâu, bạn cũng đang tự nô lệ hoá chính mình trong công việc bộn bề, trong những trò vô bổ hay sự biếng nhác của tâm hồn, dưới một bầu trời tự do hiển nhiên không phải trả giá. Hãy đọc chuyện đời của một người nô lệ, để biết yêu hơn thứ tự do mà bạn đang có, hơn thế, để biết tận hưởng đến cùng hương vị của tự do. 

(Bài đã đăng ở:
http://vannghetre.com.vn/vi/tin-anh-slide.nd197/muoi-hai-nam-no-le---anh-sang-tam-hon--duoi-nhung-lan-roi-ki-uc.i789.html )

No comments:

Post a Comment