Saturday, June 21, 2014

Khi mẹ nói KHÔNG

         Con gái yêu của mẹ, ngày hôm nay, lần đầu tiên mẹ nhận ra rằng: mẹ yếu đuối nhất trước các con – những thiên thần bé bỏng yếu ớt của mẹ. Mẹ đã nói không với con, tỏ ra cứng rắn khi chối từ một yêu sách nhỏ của con, tỏ ra kiên cường giải thích cho con hiểu trong tiếng con khóc lóc vật vã ngay giữa chốn đông người nhưng thực ra, mẹ chỉ chực khóc vì cảm thấy mình yếu đuối và bất lực.

            Con yêu, cái gói bánh nhỏ con đòi trong chợ là thứ mẹ hoàn toàn có thể thoả mãn con, dễ dàng như một cái tặc lưỡi mà mẹ đã từng đôi ba lần vô thức buột ra khi chiều theo ý muốn của con. Nhưng, hôm nay mẹ đã nói không vì mẹ nhận ra cái “mánh khoé” nhỏ của con và mẹ không muốn con trở nên quen thuộc với nó. Sau vài lần con mè nheo đòi mẹ mua bánh ở chợ, sau vài cái tặc lưỡi của mẹ vì không muốn con gây sự chú ý ở chốn đông người, con đã biết rằng, con có thể lợi dụng đám đông để đòi hỏi mẹ. Mẹ hoảng hốt nhận ra con gái mẹ bắt đầu quen với mánh khoé con tự khám phá ra bằng trí thông minh non nớt của một đứa trẻ sắp lên 4 tuổi. Mẹ nhận ra rằng, con không chỉ biết sử dụng vũ khí nước mắt mà còn biết lợi dụng đám đông để yêu sách vòi vĩnh mẹ. Điều đó, mẹ không bao giờ chấp nhận và không bao giờ cho phép được tiếp diễn! Đó là lí do hôm nay, mẹ đã nói không với con, con gái ạ!
Mẹ muốn con sử dụng trí tuệ của con để học những điều hay chứ không phải để khám phá ra những mánh khoé (rất dễ thành thói tật) chỉ nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu của bản thân. Mẹ muốn con hiểu rằng, cái gì cũng có giới hạn, ngay cả những đòi hỏi có vẻ như sơ đẳng của một đứa trẻ đang tập lớn như con. Mẹ hiếm khi nói không với con khi con đòi chơi thêm ở công viên mấy phút, dù cả nhà có thể ăn cơm tối trễ hơn một chút. Mẹ cũng không mấy khi nói không với con khi con đòi đọc thêm một vài cuốn sách trước giờ đi ngủ, tuy có thể đã quá giờ đi ngủ rồi. Dù vậy, mẹ muốn con nhận ra và ý thức mạnh mẽ về sự tồn tại của khước từ. Mẹ muốn con biết, có những thứ hiện diện ngay trong tầm tay nhưng không phải cứ đòi là có. Mẹ muốn con chấp nhận rằng, càng lớn, con sẽ càng phải nghe nhiều lời từ chối, không phải chỉ từ cha mẹ mà còn từ rất nhiều người xung quanh. Đời hiếm lắm những chiều chuộng vuốt ve, những cái gật đầu đồng ý vô tư nhưng lại rất sẵn những cái lắc đầu lạnh lùng và câu chối từ quen thuộc: Không! Đấy là chưa kể, đời nhiều khi còn ném vào ta những từ khước cay nghiệt và xú khắm hơn cái lắc đầu và từ không nhiều lần, con ạ! Mẹ muốn con làm quen với từ không để mai này ra đời, con sẽ bình thản đối mặt những từ khước đa phần là vô lí của nó. Khi bố mẹ chối từ con, chúng ta luôn tìm cách giải thích cho con hiểu lí do của việc đó. Còn đời ấy mà, nó không sẵn câu trả lời, vô cùng hiếm nguyên do hoặc có chăng thì chỉ là lí do lí trấu không hề thực chất. Đời lại càng không đủ kiên nhẫn để giải thích cho con điều gì đâu con ạ. Rất thường xuyên, đời chỉ táng vào ta lời từ khước, thế thôi! Nó bỏ mặc ta trơ trọi một mình với bãi chiến trường thất vọng, đau đớn, mệt nhọc, hoài nghi…, buộc ta phải gượng đứng dậy tự tìm lấy câu trả lời cho vô số câu hỏi mà nó quăng ra vô tội vạ. Mẹ không dám mong con mẹ sẽ không bị đời từ chối bất kì điều gì, vì đó là điều không tưởng. Nhưng mẹ mong, mai này, các con của mẹ sẽ đủ bản lĩnh và sức mạnh nội tâm để đối diện với những chối từ, ngoảnh mặt, phủi tay; sẽ đủ tri thức và trí tuệ để thu vén đời sống giữa ngổn ngang những câu hỏi oái oăm đời bày sẵn. Vì thế, mẹ đã nói không với con hôm nay và sẽ còn tiếp tục nói không với các con ở nhiều trường hợp nữa trong tương lai, cho đến khi con đủ trưởng thành để tự nhiệm với bản thân mình, để tự trả lời những câu hỏi rối rắm hơn cái câu hỏi Có – không đơn giản mà con đang tập hỏi.
Và cuối cùng, mẹ muốn con thấm thía rằng, đám đông không phải/ không nên/ không được phép là phương tiện của đời con. Đám đông nhộn nhạo ấy không hiểu gì con đâu, dù họ có thể tỏ vẻ thông cảm với con. Đám đông a dua ấy không giúp gì con đâu, dù họ có nói với con vài lời tội nghiệp hay gợi ý vu vơ cho mẹ cách làm con nín khóc. Đám đông nông cạn và hời hợt ấy tuyệt đối không quan tâm đến con quá lâu đâu, dù con có gào khóc giãy giụa suốt mấy chục phút đồng hồ ngay trước mắt họ. Thế nên, con đừng bao giờ nghĩ đến chuyện lấy đám đông làm phương tiện hay cứu cánh cho đời con.
Hôm nay, trí thông minh non nớt của con đã nhầm khi hòng lấy đám đông để vòi vĩnh mẹ. Mẹ không sợ đám đông, con ạ. Họ làm sao hiểu được chuyện riêng giữa mẹ con mình. Vì vậy, suốt mấy chục phút con gào thét lôi kéo mẹ quay lại quầy bánh kẹo để mua thứ con muốn, mẹ đã kiên định níu con đứng lại, nói chuyện và tìm mọi cách làm con dịu lại ngay trước mọi cặp mắt đổ dồn về phía mẹ con mình, trong đó, có không ít cái nhìn khó chịu. Có một bà đã không chịu được phải chạy ra yêu cầu mẹ bế con lên, rồi lạnh lùng nói “cảm ơn” khi thấy mẹ bế con lên ngay sau đó. Bà ấy tưởng mẹ làm theo yêu cầu của bà ấy mà không biết rằng, trước cả khi bà ấy nói, mẹ đã nhiều lần cố gắng ôm con vào lòng nhưng bất lực vì sự giãy đạp của con. Mẹ ném trả một cái nhìn sắc lạnh cho bà ấy, không mong bà ấy hiểu mẹ. Mẹ cũng chẳng có thời gian giải thích với bà ta vì điều duy nhất mẹ quan tâm lúc ấy là con. Vài ba người khác đi qua nhìn mẹ ái ngại, nhìn con lắc đầu. Một người đàn ông đi qua nhìn thẳng vào mắt mẹ, giơ tay làm dấu “thump up”, cười cảm thông và bảo rằng: “We are all with you”. Mẹ nhìn anh ta biết ơn, nhưng cũng không định bày tỏ gì thêm, vì mẹ biết rằng người đàn ông đó cũng không hiểu con đâu. Mẹ biết con gái mẹ rất ngoan và hiếm khi mất kiểm soát đến độ như vậy. Chỉ là vì hôm nay con không ngủ trưa ở trường, con mệt sẵn nên dễ dàng cáu bẳn. Chỉ là vì mẹ đã từng tặc lưỡi vài lần chiều chuộng con nên con chưa chấp nhận được việc bị chối từ trong cùng một việc mà trước đó mấy hôm, mẹ vừa thoả mãn con. Chính mẹ đã làm con bối rối trước hành động không nhất quán của mình. Đó là lỗi của mẹ.
Con có thấy không, rằng những người ngoài kia không hiểu gì về mẹ con mình. Chính vì thế mà mẹ không bao giờ cho phép họ xen vào chuyện riêng của mẹ, và mẹ hứa với con rằng, mẹ sẽ tìm mọi cách để bảo vệ con và cuộc sống của con trước sự hung hăng tàn nhẫn và kể cả sự nuông chiều hời hợt của đám đông. Mai này, con sẽ phải đối diện thường xuyên với họ, đám đông ngoài kia. Hãy nhớ lời mẹ, đừng bao giờ choáng ngợp trước họ, bất kể họ định đẩy con lên đỉnh cao hay kéo dìm con xuống vực. Hãy bình thản sống với những giá trị con tự xây đắp cho riêng mình – những điều mà không mấy người trong đám đông ấy có thể hiểu được.
Con yêu, hôm nay, lúc nhìn con giãy giụa thét gào lạc cả giọng, đầu tóc bết mồ hôi, dù mẹ vẫn kiên định nói không nhưng lòng mẹ đau đớn quá! Mẹ chực khóc vì cảm thấy cô đơn và bất lực khi đã làm đủ mọi cách mà con không bình tĩnh lại. Cuối cùng, mẹ cũng cố gắng bế được con về nhà, vừa ôm chặt con giãy giụa trong tay, vừa đẩy xe cho thằng cu Muống. Trên đường về, nước mắt mẹ tuôn như mưa. Con đã sững lại một thoáng khi thấy mẹ im bặt, mím môi không nói gì thêm. Con đã ngạc nhiên thấy nước mắt chan hoà trên mặt mẹ. Rồi con lại tiếp tục khóc lóc, giãy đạp, cào cấu khắp cổ, tay, mặt mẹ. Mẹ không khóc vì những vết xước con để lại trên da thịt mẹ. Mẹ khóc vì thương con và thấy mình yếu đuối làm sao.
Cũng như mấy hôm trước, mẹ đã đau thắt lòng đứng nán lại ngoài cổng trường nghe em trai con - thằng cu Muống khóc khản tiếng. Hôm đó, nó đòi tụt khỏi xe đẩy để tự đi bộ đến trường và mẹ không có lí do gì để từ chối đòi hỏi chính đáng được tập làm người lớn của em. Mẹ chỉ bảo em lúc nào mẹ yêu cầu nắm tay mẹ thì em phải nghe lời. Thế mà lúc sang đường, nó dứt khỏi tay mẹ chạy băng băng liều lĩnh. Mẹ vừa phải đẩy xe cho con, vừa níu em không được, đành phải giằng co với nó để bế nó qua đường rồi đặt nó lại vào xe. Cu Muống gào khóc suốt quãng đường đi và suốt nửa tiếng đầu tiên ở trường học. Mẹ đã ở lại trường cố gắng dỗ dành em nhưng không được, các cô giáo bảo mẹ nên đi về. Ra khỏi cổng trường, mẹ cứ đứng thập thò nghe ngóng động tĩnh mãi, nước mắt trào ra khi nghe em con tiếp tục gào nấc nghẹn ngào. Từ hôm đó, mẹ đã biết rằng, mẹ cần cứng cỏi hơn nữa để có thể bảo vệ các con, để kiên quyết nói không với những hiểm nguy đang rình rập xung quanh các con - kho báu của mẹ. 
Con gái ơi, mẹ muốn con biết rằng, để nói không với các con, thật khó! Mẹ đang phải học từng ngày để làm cái điều không dễ dàng ấy, vì tương lai của các con. Nhưng con nhớ nhé, mẹ sẽ không bao giờ từ khước, nếu các con muốn một vòng tay, một cái ôm và những nụ hôn. Mẹ sẽ không bao giờ từ khước nếu các con muốn được lắng nghe và chia sẻ. Mẹ sẽ không bao giờ từ khước nếu các con cần một bờ vai, bất kì lúc nào, bất kể chuyện gì xảy ra. Mẹ sẽ luôn ở đây chờ các con, với tình yêu vô điều kiện.
Giờ đã là 5 giờ sáng, các con đang say ngủ, còn mẹ vẫn thao thức vì chuyện đã xảy ra hôm nay. Mẹ biết rằng sáng mai thức dậy, cô con gái bướng bỉnh của mẹ sẽ lại vui vẻ và quên hẳn chuyện hôm nay. Đời con sẽ là những ngày tươi vui bất tận (mẹ cầu mong!) và con không cần phải nhớ những thất vọng nhỏ nhặt này làm gì. Nhưng mẹ thì mẹ nhớ, vì mẹ biết mẹ không thể suốt đời bên con. Mẹ muốn giữ từng khoảnh khắc cùng con, dù buồn hay vui nên mẹ viết. Con cứ tận hưởng đời sống đi con yêu, có mẹ đây rồi, mẹ sẽ cặm cụi ghi lại những ngày tháng của các con. Mai này gió bụi cuốn đi hết, thì vẫn còn những dòng chữ này, dành riêng cho các con yêu của mẹ.


Thursday, June 5, 2014

"Mười hai năm nô lệ" - ánh sáng tâm hồn dưới lằn roi kí ức

Cuối năm 2013, bộ phim Mười hai năm nô lệ của đạo diễn Steve MacQueen được công chiếu tại Mỹ và nhanh chóng gây được tiếng vang lớn. Phần đông khán giả Mỹ - bằng những xúc động mạnh mẽ được khơi lên từ những thước phim đắt giá đã nhận định ngay rằng bộ phim này chắc chắn sẽ đoạt giải Oscar mà không cần đến bất kì kinh nghiệm chuyên môn nào về phim ảnh. Quả nhiên, sức lay động của bộ phim đã giúp nó giành được giải thưởng cao quý nhất: Giải Oscar cho phim xuất sắc nhất. Xúc cảm vẫn là yếu tố hàng đầu trong mọi đánh giá về nghệ thuật, hay nói đúng hơn, nó là yếu tố vượt ra ngoài mọi khung điểm chuyên môn, bao trùm lên toàn bộ các yếu tố mang tính kĩ thuật. Vậy, điều gì đã khiến cho bộ phim có thể chạm đến trái tim của hàng triệu người xem, đã khiến nước mắt phải rơi trên những khoé mi khô khan nhất?
    Tôi - người đã nấc nghẹn suốt hơn hai giờ đồng hồ xem phim có thể dựa vào chút mẫn cảm tự nhiên mà đồ rằng: đó là vì những dòng chữ đầu tiên trên màn hình: bộ phim dựa trên câu chuyện có thật của một người nô lệ - Solomon Northup. Không có gì thuyết phục ta hơn sự thực. Và dĩ nhiên, không có gì lay động tâm tư ta hơn một câu chuyện có thật từ một đồng loại khổ đau. Đó cũng là lí do mà tôi vẫn tiếp tục tìm đến cuốn tự truyện của người nô lệ Solomon Northup, hầu mong được gần gũi hơn một linh hồn sầu khổ tội nghiệp - người đã bị đánh cắp tự do và bị biến thành thân nô lệ cả quãng đời 12 năm.
    Lẽ thường, những người yêu sách vẫn thường thất vọng với những cuốn phim chuyển thể từ sách. Đơn giản là bởi trong khi sách mở ra bao la những tưởng tượng và hồi âm mang tính cá biệt của từng độc giả thì phim dường như lại đóng khuôn cảm xúc của người xem vào một lựa chọn thể hiện. Trong trường hợp của Mười hai năm nô lệ, tôi không muốn đặt ra bất kì so sánh nào giữa truyện và phim, bởi lẽ, bộ phim đã thực sự gây dựng được một không khí quánh đặc bất công của chế độ nô lệ, với những cảnh quay đặc tả và ám gợi. Ở đó, ta đã gặp một lựa chọn thể hiện xuất sắc của đạo diễn. Tuy nhiên, tính chất tự truyện của cuốn Mười hai năm nô lệ vẫn gây hấp dẫn cho bất kì ai muốn đến gần hơn nữa với sự thực. Cuốn sách là lời tự sự bằng những dòng hoài niệm của chính người nô lệ Solomon Northup. Những hồi ức kinh hoàng, tủi nhục của đời nô lệ được viết ra bằng chính máu và nước mắt của người kể và người cầm bút một mặt khiến ta thấm thía hơn sự thực đắng cay của một số phận, mặt khác, vẫn chừa lại những khoảng trống giữa dòng để trí tưởng tượng và cảm xúc của độc giả có cơ hội thăng hoa trong đồng điệu. Những khoảng mở quý giá dành riêng cho độc giả như thế, chúng ta không thể tìm thấy ở nghệ thuật điện ảnh - nơi bắt buộc ta phải chú tâm vào diễn biến câu chuyện theo từng cú máy, từng khoảnh khắc phim.
    Cuốn tự truyện là lời kể điềm đạm và giản dị của Solomon Northup về quãng đời mười hai năm nô lệ của ông - dưới cái tên cụt lủn không họ không nguồn - Platt. Nội cái tên cộc lốc mà bọn buôn người đã sỗ sàng dúi vào Solomon nhằm lấp liếm cái tên họ Solomon Northup có nguồn cơn căn cớ hẳn hoi của ông đã nói lên rất nhiều điều về chế độ nô lệ. Cái tên cộc như tên gọi một con vật không hơn. Cái tên trơ trọi nhõn một âm như ép buộc người ta cắt đứt hết mọi ràng buộc với thế giới con người và những quan hệ tự nhiên của con người: gia đình, cha mẹ, vợ chồng, con cái. Cái tên cô độc bơ vơ phải nhận gạo đã nói lên thực tế khắc nghiệt rằng, kiếp nô lệ không cho phép sở hữu bất kì cái gì, kể cả cái tên. Những người nô lệ bị bóc lột đến tận cùng xương tuỷ và tinh thần, bị dứt lìa khỏi mọi ràng buộc xã hội, bị lột truồng nồng nỗng mọi sở hữu tinh thần dưới con mắt soi mói kiếm chác của bọn chủ nô. Có lẽ ý thức về tất cả những điều đó, con người từng hưởng thụ tự do - Solomon đã kiên quyết chối từ cái tên Platt cho đến khi ngộ ra, ông đã bị đẩy xuống một thế giới khác - ở đó, phản kháng đồng nghĩa với đòn roi.
    Câu chuyện tưởng như là đơn tuyến với nhân vật chính là người kể chuyện và một kết cấu sáng rõ có đầu có đuôi, nhưng kì thực, cuốn tự truyện ấy đã mở ra bao nhiêu trang đời khác nhau với tính chất đa tuyến phức tạp như thực tế cuộc đời. Những mảnh đời nô lệ - những người đã chia sẻ một quãng sống đau đớn nào đó cùng Platt - là những mảnh đời dạt trôi vô định. Dù người kể chuyện đã cố gắng theo sát, quán xuyến một số mảnh đời bằng kí ức, tin đồn để mô tả sao cho trọn vẹn, nhưng còn vô số những cái tên chỉ được nhắc đến dăm ba lần rồi mất hút trong điệp trùng những chữ nghĩa khổ đau, điệp trùng máu và nước mắt. Người mẹ nô lệ khốn khổ Eliza cuối cùng đã chết mỏi mòn trong nhớ thương hai đứa con thơ dại, nhưng còn chúng - cậu bé Randall nhanh nhẹn và cô bé Emily xinh đẹp kia đã sống đời nô lệ ra sao sau khi bị dứt lìa khỏi mẹ? Cô nô lệ tươi tắn Patsey bị dập vùi không thương tiếc bởi lão chủ nô dâm đãng và bà vợ ghen tuông rồi đã gánh tiếp đòn roi thế nào khi không có Solomon ở bên đỡ đần? Đời họ rồi đi về đâu, Solomon không biết và cũng chẳng ai hay biết? Lịch sử cũng chỉ nhắc nhớ họ bằng cái tên chung khốn mạt của thời đại khốn mạt ấy: người nô lệ. 
     
    Mạch truyện đi theo dòng thời gian tuần tự giản dị: trước - sau nhưng vẫn có những nếp gấp khó cưỡng của những cú ngoái lại quá khứ và những khúc quanh bởi những pha đón bắt thì tương lai. Những ngoái lại và đón bắt ấy diễn ra tự nhiên bởi những nguyên do xúc cảm của người kể chuyện chứ không hề là trò tiểu xảo viết lách. Bởi lẽ, cuốn sách được viết theo thể loại tự truyện nên bản thân câu chuyện đã là cả một sự ngoái lại bằng hoài niệm và kí ức. Trong trường ngoái lại ấy, với những thảng thốt kinh hoàng khi nhận ra mình bị bắt cóc, với những phẫn nộ, ai oán khi bị rơi vào tay những kẻ chủ nô tàn độc, với những ấp iu hy vọng và vô số những cảm xúc khác, người viết khó có thể nén nỗi xúc động để câu chuyện tự diễn biến mà không có bất kì can thiệp xúc cảm nào. Nhưng cũng nhờ vào lối kể tự nhiên, chân thật ấy, Solomon đã khiến độc giả được gần gũi hơn và cảm thấy mến mộ con người ông. Ngay trong những trang đời đau đớn nhất, Solomon cũng không để người đọc phải tụt xuống hố thẳm của tuyệt vọng (như ông đã từng) bằng lối kể đón bắt tương lai. Đâu đó, trong những nỗi khổ đau cùng cực, ta vẫn thấy lấp lánh ánh sáng tự do, tình yêu công lí và đức tin vào Chúa Trời. Có lẽ những điều đó đã nâng đỡ Solomon trong quãng đời tăm tối nhất của ông cho nên, trên trang viết, ánh sáng của những sức mạnh tinh thần ấy lại soi rọi từng con chữ, nâng đỡ chính những linh hồn độc giả đang mò mẫm sống lại quãng sống cực nhọc của ông. Đọc Mười hai năm nô lệ, người đọc không chỉ đồng cảm với một kiếp ngựa trâu mà hơn thế, còn cảm thấy được kiếp người ấy hiến dâng cho mình một bài học lớn về đức tin và lòng hướng Thiện, nỗi khao khát tự do.
     Trong những lời kể thành thực và cảm động của mình, Solomon đã vẽ nên bức hoạ chi tiết về chân dung người nô lệ - những người làm bạn với đòn roi, ốm đói và kiệt sức nhưng vẫn không thôi khao khát tự do, không thôi nung nấu ý định chạy trốn và giấc mơ được sống ở nơi thiên đường không nô lệ Bắc Mỹ. Cũng trong những lời kể ấy, ông đã vẽ nên chân dung những gã chủ nô với những đường nét không đồng nhất, bởi có người chủ nô được ông kính mến chân thành, có người chủ nô ông khinh ghét cùng cực. Điều đó càng cho thấy, Solomon đã hoàn toàn để trái tim dẫn dắt những hồi ức của mình. Không phải vì là một nạn nhân của chế độ nô lệ hà khắc mà ông gộp tất cả bọn chủ nô vào một rọ độc ác. Ông kể về những người chủ tốt của mình với một cái nhìn chiêu tuyết, vì ông tin rằng, nếu họ sống trong một môi trường khác, Thiện tính của họ sẽ được phát huy.
    Dù câu chuyện được viết nên khi Solomon đã trở lại làm người tự do, nhưng những lằn roi nô lệ vẫn hằn lên trên từng trang viết, ám ảnh khôn nguôi. Khi mô tả khoảng cách không gian, tác giả dùng hình ảnh roi da làm định lượng: “Xưởng dệt mà chúng tôi đang xây cất nằm giữa một vườn cây ăn quả cách dinh cơ Chapin, còn gọi là “nhà lớn”, vài sải roi da” (trang 97) Có lẽ, chính ông cũng không ý thức được những lằn roi ấy đã ăn sâu vào tiềm thức của chính mình. Và dù may mắn thoát khỏi vòng nô lệ, dù được quay trở về với gia đình sau mười hai năm sức cùng lực kiệt trên những cánh đồng bông, cánh đồng mía, dưới làn mưa roi tàn bạo, dù vẫn nuôi trong lòng ánh sáng của công lí, lẽ phải và tự do nhưng trong thẳm sâu người nô lệ ấy vẫn nhức nhối nỗi đau chung cho kiếp sống bất hạnh của đồng loại mình. Tôi tin những giấy tờ, văn tự mà Solomon trưng ra trong cuốn sách không chỉ nhằm xác thực những thông tin trong cuốn tự truyện mà còn bởi sự thôi thúc chứng minh bằng chứng tự do của chính ông - người đã bị biến thành “động sản” của đồng loại chỉ sau một đêm bị cướp sạch giấy tờ. Những giấy tờ ấy với tôi cũng là những vết hằn của đời nô lệ.
    Với Mười hai năm nô lệ, có lẽ không có cách nào tốt hơn là đọc và tự chiêm nghiệm. Có thể bạn cho rằng, chế độ nô lệ đã lùi xa, câu chuyện của một người nô lệ thì có gì đáng kể? Nhưng bạn ạ, đọc đi rồi sẽ thấy, biết đâu, bạn cũng đang tự nô lệ hoá chính mình trong công việc bộn bề, trong những trò vô bổ hay sự biếng nhác của tâm hồn, dưới một bầu trời tự do hiển nhiên không phải trả giá. Hãy đọc chuyện đời của một người nô lệ, để biết yêu hơn thứ tự do mà bạn đang có, hơn thế, để biết tận hưởng đến cùng hương vị của tự do. 

(Bài đã đăng ở:
http://vannghetre.com.vn/vi/tin-anh-slide.nd197/muoi-hai-nam-no-le---anh-sang-tam-hon--duoi-nhung-lan-roi-ki-uc.i789.html )