Sunday, December 21, 2014

Hi sinh là bản sắc của phụ nữ Việt? (vĩ thanh)

Sau khi bài báo của mình được publish, mình nhận được rất nhiều phản hồi từ độc giả. Điều khá bất ngờ với mình là đa số những người bày tỏ sự đồng cảm với mình lại là đàn ông và một vài người trong số họ đòi mình phải viết thêm bài nữa để nói cho hết nhẽ, bằng cái nhìn từ phía những người đàn ông. 
Điều căn bản họ muốn bày tỏ là: Chúng tôi không cần sự hi sinh của phụ nữ, để rồi phải nhận lại gánh nặng áp lực đòi hỏi được trả ơn. 
À, thế là đã rõ. Cái tấm mề đay mang tên hi sinh bao đời nay được đồng phục cho phụ nữ Việt hoá ra không chỉ khiến phụ nữ Việt phải oằn lưng mang vác mà còn khiến đàn ông Việt (hay nói rộng ra là những đối tượng của sự hi sinh) cảm thấy áp lực phải chịu ơn. 
Thiết nghĩ, bình đẳng là nguyên tắc của mọi mối quan hệ lành mạnh cho nên tương tác "cho và nhận" trong mọi mối quan hệ là tương tác căn bản. Tâm lí thường tình của con người dựa trên nguyên tắc "cho và nhận" ấy dễ dẫn chúng ta đến chỗ hiểu sai ý nghĩa của hành động hi sinh. Hi sinh là một hành động vượt ra ngoài mọi nguyên tắc quan hệ thông thường bởi ý nghĩa của nó nằm ở sự tự nguyện nhận lấy phần thiệt thòi về mình mà không đòi hỏi hay kì vọng bất kì sự đền đáp nào. Hạnh phúc của người hi sinh là ở chính hành động hi sinh của mình chứ không phải là những gì đến sau đó. Một người ý thức rõ về hành động hi sinh của mình sẽ chẳng khó khăn gì để nhận ra điều này nhưng những người bị buộc phải hi sinh thì rất dễ rơi vào cái bẫy nhầm lẫn, bởi họ sẽ nghĩ theo nguyên tắc quan hệ thường tình chứ hoàn toàn không để tâm đến sự vượt thoát khỏi những nguyên tắc ấy của hi sinh. 
Những nhầm lẫn tai hại xảy đến do tình trạng xã hội đòi hỏi phụ nữ đồng phục đức hi sinh, khiến nhiều người khoác đức hi sinh lên người mà chưa kịp hiểu tường tận ý nghĩa của nó là gì. Hậu quả trực tiếp của việc đồng phục đức hi sinh cho phụ nữ Việt là sự trói buộc cho thân phận phụ nữ Việt. Hậu quả gián tiếp của việc này là những áp lực vô hình về sự chịu ơn, sự thúc bách phải đền ơn đáp nghĩa cho đàn ông Việt. Điều đáng sợ nhất là giữa những nhập nhằng của những cho và nhận đầy bí bức ấy, một quả bom huỷ diệt quan hệ đã vô tình được cài sẵn lúc nào không hay, chỉ chực chờ để nổ tung tất cả. 
Một khi hi sinh biến thành gánh nặng cho cả hai phía: chủ thể và khách thể thì cũng là lúc ý nghĩa của việc hi sinh đã bị biến dạng hoàn toàn. Chủ thể hi sinh trong gò ép, nên nảy sinh ra cái mong muốn được trả ơn. Mong muốn đó lại gây nên áp lực cho khách thể của sự hi sinh - những người có thể cũng chỉ bất đắc dĩ hưởng chịu cái ơn hi sinh một cách bắt buộc. Đến nước này thì chẳng còn lí do gì mà không dứt cái ràng buộc của ước lệ văn hoá mang tên hi sinh ra khỏi đời sống xã hội Việt Nam. 
Bởi lẽ, hi sinh rất dễ biến thành quả bom huỷ diệt dưới những áp lực cho và nhận, bởi chỗ của nó nằm ngoài mọi áp lực. 

Thursday, December 18, 2014

Hi sinh là bản sắc của phụ nữ Việt?

Dù không mấy quan tâm đến cuộc thi hoa hậu vừa được tổ chức cùng những chuyện ồn ào quanh nó, nhưng mấy ngày nay, tôi đặc biệt để ý đến những ý kiến xoay quanh phần thi vấn đáp của tân hoa hậu. Bởi câu trả lời của cô đụng đến một vấn đề hầu như đã được mặc định trong tư tưởng của nhiều thế hệ người Việt - sự hy sinh của phụ nữ Việt Nam. Sẵn có anh chồng là người nước ngoài - một đại diện có khả năng xem xét câu trả lời một cách khách quan, tôi đã tham khảo ý kiến của anh. Khi nghe tôi kể đến câu trả lời của tân hoa hậu, đại ý rằng điều làm nên sự khác biệt của phụ nữ Việt Nam là sự hi sinh, chồng tôi cả cười mà rằng: có công bằng và chính xác không, khi người Việt chỉ biết mình chứ chưa biết đến xung quanh mà đã tự phong danh hiệu đẳng cấp toàn cầu trong một sự so sánh ngấm ngầm ngạo nghễ? Phải rồi, khi đặt vấn đề trong tương quan so sánh mà vế được so sánh với (ở đây là phụ nữ thế giới nói chung) chưa được làm sáng tỏ thì rất dễ dẫn tới tình trạng ngộ nhận.
Liệu có phải hi sinh là đặc trưng nổi bật để làm nên sự khác biệt của phụ nữ Việt Nam như lời cô hoa hậu trẻ nói hay không? Tôi ngờ rằng không khi thoáng nghĩ đến những người phụ nữ khác màu da, khác quốc tịch mà tôi đã may mắn gặp và quen biết. Chẳng phải kể đâu xa, bà ngoại của chồng tôi, một phụ nữ Mỹ gốc Do Thái là một mẫu phụ nữ hi sinh điển hình. Bà lớn lên trong sự thiếu thốn tình cảm vì mẹ mất sớm, cha đi bước nữa. Vì người mẹ kế ích kỉ, bà hầu như mất luôn sự săn sóc của người cha. Bà tự đảm đương vai trò làm mẹ để chăm sóc hai người anh trai từ bé đến lớn. Dù rất thông minh nhưng bà đã từ bỏ ước mơ vào đại học để đi làm nuôi các anh trai ăn học. Cả cuộc đời bà hầu như sống vì người khác, cho người khác. Ngay cả đến những năm tháng cuối đời, vào cái tuổi trên chín chục, bà vẫn không chịu đến ở nhà con cái vì sợ làm xáo trộn cuộc sống của các con. Tôi không biết dùng phẩm chất nào khác hơn để nói về bà, ngoài từ hi sinh.
Ngay trên đất Mỹ - đất nước mà cái Tôi cá nhân được đề cao hết mực, tôi vẫn nhìn thấy vô số những người phụ nữ đang hi sinh sự nghiệp vì gia đình. Vì áp lực của công việc và sự coi trọng vấn đề chăm sóc con cái, nhiều phụ nữ Mỹ ngày nay vẫn lựa chọn giải pháp tạm thời dừng công việc để ở nhà trông con cho chồng yên tâm phấn đấu cho sự nghiệp.
Trước những sự thật mắt thấy tai nghe như thế, tôi không thể không ngờ vực câu trả lời của tân hoa hậu, hay nói đúng hơn là ngờ vực một mặc định tư duy, một ngộ nhận của người Việt mình. Tôi không cho rằng sự hi sinh làm nên nét khác biệt của phụ nữ Việt Nam, có chăng, sự khác biệt giữa phụ nữ Việt và phụ nữ Mỹ chỉ là cách nhìn nhận vấn đề hi sinh. Trong khi phụ nữ Việt Nam oằn lưng gắng sức chịu bao nhiêu gánh nặng để nhận lấy tấm huy chương cao quý mang tên hi sinh mà người đời trót gửi gắm từ nhiều đời trước thì phụ nữ Mỹ lại chỉ đơn giản coi việc họ hi sinh là một lựa chọn của chính mình, không dưới bất kì sức ép nào, để rồi vui vẻ tận hưởng nó. Đối với phụ nữ Mỹ, hi sinh không phải là con đường độc đạo duy nhất để thể hiện mình, lại càng không phải là một cách ứng xử được gợi ý sát sườn bởi sự cổ vũ, đề cao thái quá nào đó từ phía xã hội. Hi sinh đối với họ cũng chỉ là một trong vô số lựa chọn ứng xử trước một cảnh huống đời tư, thế thôi. Do đó, nó được nhìn nhận rất nhẹ nhàng, cả từ phía chủ thể lẫn khách thể.
Tôi biết một cô kế toán làm việc ở trường mầm non của con - một phụ nữ tóc vàng cao lớn xinh đẹp đã goá bụa, một mình ở vậy nuôi 3 con ăn học. Nếu chị ở Việt Nam, hẳn chị đã được người đời tụng xưng bằng nhiều mỹ từ vì sự hi sinh của chị cho các con. Nhưng ở Mỹ, không ai nhìn sự việc theo cách như vậy và ngay bản thân chị chắc cũng không bao giờ nghĩ rằng việc ở vậy nuôi con là sự hi sinh. Chị lựa chọn sống như thế vì đó là cuộc sống khiến chị thấy thoải mái và hạnh phúc nhất trong hoàn cảnh hiện tại. Chị lúc nào cũng xuất hiện ở trường trong một vẻ tự tin, yêu đời, nhiệt tình với công việc và mọi người. Không ai quanh chị nghi ngờ việc chị đang hạnh phúc với lựa chọn của chính mình. 
Câu trả lời của tân hoa hậu là một cách trả lời dễ dàng nhận được sự đồng thuận của số đông người Việt vốn đã sống với quan niệm về sự hi sinh của phụ nữ Việt Nam qua nhiều thế hệ. Không biết tự bao giờ, hi sinh trở thành thứ danh hiệu cao quý cho phụ nữ Việt Nam? Rồi cứ theo cái phong trào thi đua vì danh hiệu, chẳng mấy chốc, hi sinh thành ra thuộc tính của phụ nữ Việt. Là phụ nữ Việt, ắt phải biết hi sinh. Cái mệnh đề nhẹ nhõm nghe rất thuận tai, nói rất thuận miệng ấy nếu ngẫm cho kĩ mới thấy nặng nề làm sao, nhất là đối với phụ nữ trong thời hiện đại, khi mà những gánh vác, lo toan về công việc cũng ngang ngửa như đàn ông. Nếu giả dụ, trong một trường hợp nào đó, một phụ nữ Việt Nam chọn không hi sinh để được thoả sức tung hoành với mơ ước riêng của mình, cô ấy có bị thiên hạ chê cười không? Câu trả lời, đáng tiếc thay là có. Bởi lẽ, hi sinh đã trở thành thứ trang sức đồng phục của phụ nữ Việt Nam, ai khác đi là người đó có vấn đề.
Viết đến đây, tôi lại càng không muốn nghĩ hi sinh là bản sắc của phụ nữ Việt. Vì nghĩ cho cùng, hi sinh chỉ đẹp khi đó là hành động tự nguyện. Nếu biến nó thành một thuộc tính cho giới nữ của cả một dân tộc, liệu nó có còn đáp ứng được điều kiện cần và đủ để đẹp hay không?

Vậy, nên chăng tiếp tục tư duy theo lối vơ vào, đề cao thái quá phẩm chất hi sinh của phụ nữ Việt, khi mà chúng ta không lường trước được sức nặng ghê gớm của tấm mề đay cho thân phận đàn bà Việt nhiều thế hệ tiếp theo?
(Bài đã đăng ở: http://vnexpress.net/tin-tuc/goc-nhin/hy-sinh-la-pham-chat-3121903.html )

Thursday, December 4, 2014

Ra đi

                                                                        (Tặng anh Ch.)
Không có gì tuyệt hơn khi được bắt đầu những trang đầu tiên của cuốn tiểu thuyết mới trên đồi cỏ lộng gió bên bến du thuyền Berkeley vào một ngày hè. Tôi thích đặt bút viết những dòng chữ mới trên trang giấy trắng tinh trong cái khoái cảm dịu dàng được mang đến bởi những ngọn cỏ úa vàng dưới cơn nắng chói cọ vào chân, những cơn gió ẩm ướt sung sức tạt ngang má mát lạnh. Mùa hè Berkeley luôn quyến hoặc tôi bởi sự trộn lẫn độc đáo của cái nắng bỏng da và những cơn gió lạnh se thổi vào từ bờ Vịnh. Đó là lí do mà vào những mùa hè có ý định khởi thảo một cuốn sách mới, tôi luôn chọn đến ở Berkeley chừng 3 tháng, chỉ để ra ngồi đồng ở cái công viên ngay bên cạnh bến du thuyền này và viết. Dù đã có lí do hẳn hoi song mỗi lần quay lại Berkeley, tôi vẫn không khỏi băn khoăn và cố gắng tìm thêm lời biện giải nào khác cho việc trở đi trở lại đúng một địa danh của mọi sự khởi đầu viết lách quan trọng. Thực tình, đó là điều gần như không thể lí giải nổi với tôi - một gã đã quen sống lang bạt kì hồ suốt nửa đời người, luôn luôn tìm kiếm niềm vui và cảm hứng trong những hành trình ngẫu hứng chưa bao giờ kết thúc. Ngay cả thành phố Florence xinh đẹp quê hương tôi cũng không thể níu giữ đôi chân cuồng đi và trái tim khát mới của tôi.
Lần đầu tiên tôi đi xa là chuyến hành trình đến Mỹ từ 25 năm trước với ý định tìm lại người cha chưa một lần biết mặt của tôi (hay nói đúng hơn là người tình thất lạc của mẹ tôi). Hơn 40 năm trước, mẹ tôi - một cô tiểu thư con nhà quyền quý đi du lịch bằng tàu biển cùng cha mẹ đến thành phố San Francisco rồi nằng nặc đòi ở lại đây vì muốn được hoà vào đám đông hippie trẻ tuổi say sưa trong âm nhạc và những vũ điệu tự do ở quận Haight-Ashbury. Rồi bà hiến dâng tình yêu si mê đầu đời cho một gã hippie người Texas - xứ sở của những chàng cao bồi. Khi biết mẹ tôi mang trong mình giọt máu cao bồi, gã đàn ông của bà đã dứt áo ra đi, không đợi mẹ tôi kịp tận hưởng ý nghĩ sung sướng về việc được làm mẹ và chút khoái cảm còn vương vất sau một đêm làm tình mệt nhoài với người yêu. Thế mà bà không hề hận cha tôi. Mỗi lần nhắc đến ông, bà luôn bảo rằng bà hiểu sự ra đi của ông và chấp nhận rằng, người đàn ông của bà tôn thờ tự do, hiến dâng đời mình cho tự do. Năm đó, mẹ tôi 18 tuổi. Bà sinh tôi ra ở ngay giữa trung tâm của những người hippie và đặt tên tôi là Francisco. 2 năm sau, ông bà nội tôi cương quyết kéo mẹ tôi về Ý để tiện chăm sóc tôi và để mẹ tôi quay trở lại trường học. Bà ở vậy nuôi tôi và vẫn luôn kể về người đàn ông tự do của bà cho tôi nghe vào những ngày mùa hè rực nắng - những ngày dễ gợi nhắc đến Summer of Love xa xưa trong tuổi trẻ của bà. Tôi nhớ dáng mẹ tôi ngồi bên hàng hiên, trong chiếc váy hoa thắt eo, mắt sáng bừng long lanh theo từng lời hát bà lẩm nhẩm suốt ngày, đến độ tôi đã thuộc lòng từ tuổi bé thơ:
For those who come to San Francisco
Summertime will be a love-in there
In the streets of San Francisco
Gentle people with flowers in their hair[1]
Năm 18 tuổi, khi tôi ngỏ ý sang Mỹ tìm cha, mẹ tôi thảng thốt nhìn đứa con trai gầy gò nhưng có đôi mắt sáng và cái xương hàm vuông vắn hệt người đàn ông cao bồi của bà, rồi cười buồn nói với tôi: đã đến lúc rồi, con cứ đi đi. Cứ như thể bà đã biết trước rằng, đến một ngày, tôi sẽ rời xa bà và bắt đầu cuộc đời lang bạt. Bà đoán không sai, từ cái ôm tạm biệt với mẹ tôi năm 18 tuổi, tôi đã bắt đầu những chuyến lang thang vô định của đời tôi. Và tôi bắt đầu viết.
***
Tôi thường chọn ngồi bên sườn đồi, hướng nhìn ra phía Vịnh San Francisco, xa xa là cây cầu Cổng Vàng ẩn hiện trong mây. Thay vì ngồi trong những quán café thơm tho, tiện nghi, tôi chọn ngồi viết ở công viên, trong nắng gió, trong tiếng lá cây xào xạc, tiếng chim ríu rít và tiếng trẻ con nô đùa. Ở đó, tôi thấy tôi tự do và không bị ai làm phiền (dù là những sự làm phiền hết mực tử tế, ví như cậu bồi bàn hỏi tôi có cần thêm café không?). Thay vì viết bằng máy tính, tôi chọn lối viết lách cũ kĩ thô sơ bằng bút mực và giấy trắng. Sau nhiều năm lang thang, tôi nghiệm ra rằng, càng giản tiện, càng tự do. Với một cuốn sổ dày và vài ba cây bút, tôi có thể ngồi lì ở công viên từ sáng sớm đến chiều muộn mà không phải lo máy tính hết điện, không sợ lũ chim xấu chơi bay qua ị cho một bãi ngay giữa bàn phím. Rõ ràng, với bút và giấy, tôi tự do hơn những người gõ bàn phím nhan nhản quanh tôi. Và cũng với bút và giấy, tôi được hưởng thụ đặc quyền quay trở lại với những ý nghĩ từng bị gạch xoá trong quá khứ. Không ít lần, tôi quay ngược lại những dòng chữ bị dập xoá thê thảm trong một cơn bí bức ngôn từ và cảm hứng nào đó để rồi bắt lại được mạch viết, nuôi dưỡng được một cành nhánh mới cho câu chuyện dang dở. Đấy là chưa kể đến cảm giác tuyệt diệu khi thấy những cảm xúc của mình được vật chất hoá tức thì qua cái miết chặt của những ngón tay vào cây bút.
Thường thì một khi đã bắt đầu, tôi ít khi ngưng viết cho đến khi tay mỏi nhừ vì tì miết quá mạnh. Viết suốt nửa đời người mà tôi vẫn không nhớ được một kinh nghiệm sơ đẳng rằng càng lên gân, tôi càng viết chậm và càng trở nên cuống quýt sợ hãi những ý nghĩ sẽ rời bỏ tôi trước khi tôi bắt kịp chúng. Thực tế là khi bắt đầu một cơn hứng khởi, tôi hầu như quên tiệt mọi bài học và kinh nghiệm. Tôi lại nguyên sơ như giấy, lại ngốc nghếch mắm môi mắm lợi dồn hết sức lực vào bàn tay phải để giải thoát nguồn cảm hứng đang cuồn cuộn trong lòng, quên béng rằng cứ lên gân như thế độ dăm phút là những ngón tay tôi trở nên tê cứng. Trong một lần dừng viết bởi một cơn tê tay như thế, tôi ngước mắt nhìn lên và thấy nàng. Tôi chạm phải ánh mắt nàng và ngay lập tức, nàng nở một nụ cười đáp trả. Nàng có khuôn mặt trẻ thơ và nụ cười bừng sáng, giống hệt như nụ cười của cô bé con đi bên cạnh nàng. Hình như cô bé con tò mò chỉ trỏ người đàn ông ngồi viết một mình bên cái bàn bé xíu kì quặc khi họ bước ngang qua tôi và nàng đang cố lôi kéo cô con gái ngây ngô đi sang hướng khác. Nụ cười hàm ý thông cảm của nàng đáng yêu đến nỗi tôi cứ ngây ra nhìn cho đến khi hai mẹ con họ đi xa dần.
Những ngày sau đó, tôi bắt đầu để ý hơn đến xung quanh trong những lần dừng bút vì tê mỏi. Và hầu như ngày nào, tôi cũng thấy hai mẹ con nàng vào đầu giờ chiều. Chắc là họ vẫn thường đến đây nhưng tôi chưa bao giờ để ý. Nàng hay mặc những chiếc quần lụa thẫm màu có vẽ hoặc thêu hoa văn lạ mắt cùng những chiếc áo thun bó, để lộ cái eo thon nhỏ và vòng hông nở gợi cảm. Cô con gái chừng 3,4 tuổi hay thắt bím tóc hai bên, trông lí lắc đáng yêu khi đi bên mẹ. Mẹ con nàng thường đi dạo dưới chân đồi và thi thoảng, cô con gái nghịch ngợm bất thình lình trèo ngược lên đồi để nàng mướt mải đuổi theo, cười váng động trong nắng chiều. Ngồi ở sườn đồi mỗi ngày, tôi đã nhiều bận ngắm hai mẹ con họ say sưa đến buông rơi cả bút. Nhân một hôm nản lòng vì gạch xoá quá nhiều, tôi quyết định vứt bút giấy qua một bên, đứng dậy bắt chuyện với mẹ con nàng. Đang ngồi ăn vặt với con gái, nàng ngước nhìn tôi vẫn với nụ cười rạng rỡ như đã sẵn sàng cho cuộc làm quen này từ lâu lắm: Chào anh! Anh không viết nữa à? Tôi lắc đầu, than thở rằng hôm nay là ngày quái quỷ gì mà tôi chỉ ngồi gạch xoá chứ không viết nổi chữ nào. Nàng cười an ủi: gạch xoá cũng là việc cần làm mà. Không biết cách vào chuyện tự nhiên hay đôi mắt lúc nào cũng lấp loá nắng và đôi môi cong luôn chực sẵn nụ cười của nàng khiến tôi bị thu hút. Tôi say sưa tán chuyện trên trời dưới biển với nàng mất một lúc mới nhớ ra chưa hỏi tên.
-       Xin lỗi, chị tên gì nhỉ?
-       Liên. Còn anh?
-       Lyann?
- Không, Liên, trong tiếng Việt nghĩa là hoa sen. Chắc là hơi khó cho anh nhỉ, anh cứ gọi tôi là Lyann cũng được. Cái tên cũng đâu quan trọng gì, phải không?
- Ừ, chị nói cũng phải, nhưng tôi sẽ nhớ tên chị nghĩa là hoa sen. Rất đẹp và rất hợp với chị!
Nàng lại cười, mái tóc đen nhánh xoã ngang lưng tuôn trong gió như một mảnh lụa mềm.
         Sau buổi hôm đó, ngày nào tôi cũng tự cho phép mình dành riêng vài ba chục phút chuyện gẫu với Liên. Nàng lớn lên ở Sài Gòn, trong một gia đình nghèo đông con, cha mẹ gây gổ đánh lộn suốt ngày chỉ vì chuyện tiền bạc. Một lần giúp người quen đứng bán hàng lưu niệm trên đường Đồng Khởi vào dịp nghỉ hè, nàng tình cờ gặp một chàng trai người Mỹ vừa tốt nghiệp đại học sang Việt Nam du lịch. Anh chàng người Mỹ mê say cô gái Việt Nam nhỏ bé có nước da nâu giòn đến độ quyết cưới cô làm vợ chỉ sau vài tháng quen biết. Nàng nhận lời cầu hôn chóng vánh của gã trai tóc vàng mắt xanh trong men say tình đầu choáng váng và nỗi khát khao được trốn chạy khỏi ngôi nhà xiêu vẹo bởi dấu ấn những cơn bạo hành của cha mẹ. Năm đó, Liên 18 tuổi. Anh ấy là người đàn ông đầu tiên và duy nhất của tôi. Một người đàn ông hoàn hảo. Liên kể về chồng với một vẻ biết ơn nhẫn nại. Chồng nàng làm nghề kiến trúc sư và rất có tài, theo như lời Liên kể. Sau khi đưa cô vợ da vàng mũi tẹt tuổi mới lớn lơ ngơ sang Mỹ, chồng Liên giúp nàng học cao đẳng ngành kinh tế mà nàng đã chọn bừa trong lúc chưa xác định được mình muốn gì. Tốt nghiệp rồi, Liên mới nhận ra là nàng không thích ngành kinh tế. Trong lúc phân vân về nghề nghiệp, nàng có bầu và lãnh nhận thiên chức làm mẹ tự nhiên, tạm quên đi việc phải tìm một công việc gì đó cho chính mình. Gần 10 năm ở Mỹ, thế giới của Liên hầu như chỉ gói gọn trong hai chữ gia đình. Nàng ở nhà chăm sóc con cái và làm một cô vợ ngoan, tận hưởng những yêu chiều của anh chồng giỏi giang nhưng bận rộn.
Nếu không gặp anh ấy, chắc giờ này tôi đang đứng bán hàng ở một tiệm tạp hoá nào đó ở Việt Nam, như mẹ tôi và các chị tôi. Liên ngậm ngùi nói, mắt nhìn bâng quơ về phía những gợn sóng lấp loá dưới nắng ngoài vịnh. Rồi đột nhiên, nàng hất mớ tóc qua bên vai, ngoảnh sang nhìn tôi, cười: Anh ấy là ông Bụt của đời tôi. Một ông Bụt yêu say đắm cô gái nghèo mà ông ấy đã giúp. Tôi chăm chắm nhìn đôi môi cong vừa mấp máy nói vừa nhếch lên cười của nàng, toan thốt lên: Dĩ nhiên là ông Bụt ấy phải yêu em rồi! Một người đẹp như em, không ai muốn bỏ qua, kể cả Bụt! Rồi tôi bị cái nhìn chiếu tướng của Liên làm cho bối rối, bèn nuốt vội ý nghĩ bằng một cái đằng hắng vu vơ.
- Vì sao anh chạy trốn? Một lần, Liên hỏi tôi khi nghe tôi kể chuyện tôi đã sang Mỹ như thế nào.
- Tôi đâu có chạy trốn? Tôi phản ứng. Tôi đã ra đi, bắt đầu từ một sự kiếm tìm đấy chứ!
- Nhưng anh đã không tìm thấy ông ấy, đúng không? Hoặc là anh chưa từng thực sự tìm kiếm? Liên vẫn vặn vẹo. Nàng thông minh đến mức nhiều lúc khiến tôi không kịp xử trí. Tôi ừ hữ trong cơn kinh ngạc ngấm ngầm về câu hỏi bén ngọt của nàng, rồi cố tình lái câu chuyện sang hướng khác: Thực ra, bây giờ, tôi đi là để viết…
- Viết cũng là một cách trốn chạy đấy thôi, anh không nghĩ thế sao?
Lần này, tôi chọn cách im lặng. Tôi không muốn chấp nhận sự thật rằng tôi đang trốn chạy, dù trong thâm tâm, tôi biết nàng đã đúng. Tôi đi tìm cha ư? Không, tôi chỉ đang cố gắng trốn chạy khỏi những ý nghĩ về người cha mà mẹ tôi vẽ nên cho tôi. Tôi đi tìm kiếm cảm hứng ư? Không, tôi chỉ đang trốn chạy những điều cũ kĩ đang lan dần trong từng huyết mạch của tôi, trốn chạy những buông xuôi mỏi mệt của tâm hồn đang già nua đi không cách nào cứu vãn nổi mà thôi. Tôi đang đi tìm kiếm tự do ư? Không, tôi chỉ đang trốn chạy những ràng buộc đời thường bằng những chuyến đi vô định. Những ý nghĩ sắc nhọn của nàng đâm tôi trọng thương. Làm sao một người đàn bà trẻ lại có thể hiểu tôi đến thế, chỉ qua những câu chuyện bâng quơ ở công viên sau vài tháng trời quen biết?
***
Ba tháng hè ở Berkeley đã trôi qua trong niềm kinh ngạc và hưng phấn tột độ của tôi, bởi tôi nhận ra tôi đã bồn chồn buông bút chờ Liên vào đầu giờ chiều hàng ngày. Những câu chuyện phiếm với nàng đẩy tôi đến những đỉnh cao hứng khởi và tôi đã viết say sưa dưới nắng chiều, sau mỗi mấy chục phút nghỉ giải lao nói chuyện với nàng. Dĩ nhiên, Liên không hề hay biết, nàng đã khiến cuốn sách của tôi có những trang viết trác tuyệt nhường nào cũng như nàng không bao giờ biết tôi đã mơ thấy nàng hằng đêm ra sao.
Một hôm, vào những ngày cuối cùng còn lại ở Berkeley của tôi, nàng rụt rè đề nghị tôi được đọc vài trang bản thảo của cuốn tiểu thuyết tôi đang viết dở. Tôi cười, bảo rằng đó là việc chưa từng có trong tiền lệ, trong lòng nảy ra một nỗi ngờ vực: chẳng nhẽ, nàng thông minh đến độ đoán được rằng, trong cuốn tiểu thuyết mới của tôi có bóng dáng nàng chăng? Có thể lắm! Như đoán ra ý tôi, nàng phân bua: Từ lâu, tôi chỉ muốn đọc một cái gì mới ráo mực và còn trong vòng bí mật. Tình cờ được đánh bạn với một nhà văn, tôi đã nghĩ biết đâu tôi có cơ hội thoả nguyện ước mong! Mà này, chúng ta là bạn, phải không? Tôi mỉm cười: ừ, là bạn. Và tôi sẽ phá lệ cho chị đọc vài trang ngay tại đây, ngay bây giờ. Nàng reo lên thích thú như một đứa trẻ, rồi trong khi tôi nói chuyện với cô con gái nhỏ của nàng, nàng chăm chú đọc. Thi thoảng liếc sang, tôi thấy sắc mặt nàng đổi thay lạ lùng. Cái vẻ hạnh phúc mãn nguyện tràn trề tôi vẫn thấy bỗng dưng biến mất, thay vào đó là một nỗi gì đau đáu, phảng phất chút buồn bã, tiếc nuối… Hình như, tôi đã cho nàng đọc đúng những trang viết về sự đi. Khi Liên ngẩng mặt lên khỏi mấy trang giấy, tôi thoáng thấy một giọt nước mắt trên khoé mi nàng. Liên im lặng nhìn ra phía cây cầu Cổng Vàng rồi nói với tôi mà như thể đang nói với gió: Rất đẹp! Rất thúc giục… Rồi nàng làm điệu bộ hất tóc qua vai quen thuộc trước khi quay sang tôi, nở nụ cười sáng rỡ quen thuộc, hỏi: Ngày kia anh sẽ đi phải không, Francisco? Tôi gật, đầu vẫn u u nghĩ về giọt nước mắt của nàng.
Ngày hôm sau, tôi đến công viên ngồi nhưng không viết gì, dù giấy bút vẫn bày ra trước mặt. Tôi quá sốt ruột chờ đợi Liên nên không thể cầm nổi bút. Rồi nàng đến, đúng 1:30’ chiều như lệ thường, không sớm hơn, không trễ hơn một phút. Hôm đó, nàng mặc một chiếc váy lụa xanh thẫm màu lá cây dài chấm gót và một cái áo thun dài tay màu trắng. Màu váy áo của nàng làm tôi nghĩ đến những đoá sen trắng xanh tôi vẫn hay mơ thấy. Nàng ùa đến chào tôi, rồi nói trong hơi thở gấp, vẻ hồi hộp: Anh đây rồi, tôi chỉ tranh thủ chạy ra chào tạm biệt vì hôm nay tôi phải về sớm đưa con đi tiêm phòng. Không đợi tôi trả lời, nàng giúi vào tay tôi một cái hộp nhỏ, thắt nơ hồng: Quà cho anh. Hãy đọc nhé! Đây là những gì tôi tự viết cho mình sau những đêm mộng mị triền miên. Cũng là những thứ bí mật chưa ai từng được đọc. Tôi mấp máy nói cảm ơn và không cưỡng được ôm chầm lấy nàng. Khi cảm thấy thân thể mảnh mai của nàng trong vòng tay cũng là lúc một thứ cảm xúc mãnh liệt cuộn lên trong lồng ngực tôi và ý nghĩ phải quay lại Berkeley kéo đến trong đầu, tôi nói với Liên: Tôi sẽ quay lại. Mùa hè chưa hết, vẫn chưa hết, phải không? Nàng thầm thì qua vai: Phải rồi, còn mùa hè Ấn Độ nữa…
Tôi sẽ về Ý thăm mẹ tôi chừng một tháng, rồi tôi sẽ quay lại, tận hưởng nốt mùa hè rớt ở Berkeley. Chị sẽ vẫn đi công viên giờ này chứ? Tôi sẽ gặp lại chị phải không? Tôi nói nhanh, tránh nhìn vào mắt Liên vì sợ sẽ bị cái nhìn như chiếu tướng của nàng làm bối rối đến độ phải nuốt ngược những điều muốn nói vào trong. Làm ra vẻ không để ý lắm đến trạng thái xúc động khác thường của tôi, Liên nắm tay tôi, mím môi cười tạm biệt: Chúc anh may mắn với cuốn sách mới. Đi được mấy bước, nàng ngoái lại nhìn tôi rồi nói: Tôi nghĩ, tôi cũng muốn làm một người viết như anh. Nụ cười rạng rỡ của nàng tan trong nắng chiều.
***
Tôi không ngờ rằng, đó là lần cuối cùng tôi gặp Liên. Nàng đã không đếm xỉa gì đến cái hẹn quay trở lại của tôi. Mà lẽ ra, tôi phải đoán ra điều đó chứ, lẽ ra tôi phải biết khi đọc những dòng nàng đã viết và chia sẻ với tôi trong cái hộp nhỏ nàng tặng tôi chiều hôm đó:
Có những ban mai, tôi thức dậy bằng ánh sáng của hoài nghi - thứ ánh sáng rùng rợn giết chết mọi tế bào yêu sống. Tôi thấy mình nằm đó, trong cái miệng đen ngòm của con quái vật mang tên Tuyệt Vọng. Nó đã ngoạm lấy tôi như thế nào và từ bao giờ, tôi không hay. Có lẽ nó đã chọn nuốt chửng tôi ngay trong giấc ngủ - khi tôi yếu đuối nhất và cô đơn nhất, giữa những giấc mơ phập phồng âu lo, giữa những hoài cảm hoang mang của biết bao lần dấn thân từ ngày mới lớn, giữa mê man những cơn đau tưởng đã ngủ yên trong tiềm thức bỗng thức dậy nhức nhối thịt da. Nó đã ngoạm lấy tôi giữa bóng tối lặng im - khi tôi nhắm mắt trút bỏ mọi xiêm y, trang sức để trần truồng trong từng ý nghĩ.
Có những ngày, những ý nghĩ đẹp đẽ về tình yêu và hạnh phúc bỏ mặc tôi hoàn toàn cho cái miệng tối âm u của Tuyệt Vọng. Tôi thấy tôi nằm đó, không chút sức lực kháng cự, bởi manh giáp tự vệ tôi cũng đã cởi bỏ mất rồi. Tôi đau đớn nhận ra hạnh phúc sợ hãi trốn trong chiếc áo giáp tôi vẫn mặc hàng ngày, và nó rời bỏ tôi khi tôi trút bỏ manh giáp ấy trước khi chìm sâu vào cơn ngủ. Hoá ra, hạnh phúc thuộc về tấm áo giáp tôi hằng mang chứ không thuộc về tôi. Hoá ra, tôi vẫn là tôi - trơ trọi buồn sầu nguyên thuỷ.
Có những ngày, tôi thức dậy, ngờ vực cả mặt trời.
Nàng đã viết như thế và cho tôi đọc, thế mà tôi không hiểu ra. Ngu ngốc làm sao! Lẽ ra, tôi không nên tặc lưỡi bỏ qua những giấc mơ khiến tôi ngộp thở nhiều đêm ở Florence - những giấc mơ dày đặc những đoá sen trắng xanh và tóc, và mắt, và môi nàng. Lẽ ra, tôi không nên gạt bỏ ý nghĩ đã từng thiêu đốt tôi mỗi sáng sớm thức dậy ở Florence, rằng phải quay lại Berkeley ngay lập tức. Lẽ ra, tôi phải biết, nàng sẽ làm như thế ngay từ buổi chiều chào tạm biệt ấy, khi nàng nói rằng nàng cũng muốn làm một người viết như tôi. Bao nhiêu dấu hiệu, bao nhiêu ám chỉ, thế mà tôi ngớ ngẩn không nhận ra. Cái thằng tôi ngu ngốc chỉ nhận ra nàng không còn ở đó nữa khi đã quay lại công viên bến du thuyền Berkeley sau ba tuần trời ruột gan như lửa đốt ở quê nhà. Suốt một tuần đến công viên ngồi đằng đẵng đợi mà không thấy bóng nàng đâu, tôi vẫn tự nhủ rằng chắc nàng đi nghỉ, vả lại, tôi đã hẹn nàng quay lại sau 1 tháng, chứ không phải 3 tuần. Tôi đành tự khuây khoả mình bằng việc đọc những gì nàng viết. Nhưng càng đọc, tôi càng thấy lo sợ. Cho đến buổi sáng đầu tiên sau 1 tháng trời xa cách, khi ăn một cú đấm thôi sơn vào mặt, tôi mới hoảng hốt nhận ra điều tôi lo sợ đã biến thành sự thật. Nàng đã bỏ đi.
         Sáng hôm đó, đang ngồi trầm ngâm nhìn ra Vịnh, tôi giật mình nghe tiếng hỏi giật giọng: Anh là Francisco phải không? Vừa mới ngước nhìn lên và trả lời: à, vâng theo quán tính, chưa kịp định thần thì tôi đã thấy mình bị túm cổ áo quăng sang một bên. Rồi tôi lãnh trọn một cú đấm như trời giáng vào mặt.
         Vợ tôi đâu? Liên đâu? Gã đàn ông tóc vàng, mắt xanh cao lớn, điển trai gầm gừ hỏi tôi. Nghe đến tên nàng, tôi bật dậy, quên cả cơn đau buốt bên mang tai vì cú đấm, hỏi dồn: Cô ấy đâu? Anh là chồng của cô ấy phải không? Cô ấy bỏ đi ư? Đang hùng hổ, nghe thấy tôi hỏi dồn với một vẻ ngơ ngác tuyệt đối, gã đàn ông bỗng oà lên nức nở: Anh là ai? Sao cô ấy lại bảo tôi đến gặp anh để biết lí do cô ấy ra đi? Tôi sững người. Trời ơi, hoá ra, nàng phó thác gánh nặng này cho tôi bằng món quà chia tay. Nàng bắt tôi đọc những gì nàng viết để giải thích với chồng nàng về những ẩn dụ, những ám chỉ đầy ẩn ức trong những giấc mơ của nàng. Tôi giận dữ nghĩ đến nàng, nghĩ đến cái ý tưởng quay lại Berkeley chỉ vì nàng của tôi. Sao mà tôi ngu ngốc thế?
          Mất một lúc, tôi mới bình tĩnh lại để ngồi xuống bên cạnh anh chồng tội nghiệp của nàng, cố gắng giải thích thật rành rẽ những gì nàng đã viết. Có vẻ như anh ta không hiểu gì, vẫn luôn miệng hỏi: Tôi đã làm gì sai? Tôi rất yêu cô ấy. Tôi chỉ muốn bao bọc, che chở cô ấy, muốn cô ấy được hạnh phúc. Sao cô ấy lại rời bỏ tôi, rời bỏ mái ấm gia đình? Xem chừng mọi lí giải đều vô nghĩa trước nỗi đau, tôi thở dài nói với anh ta: Đối với cô ấy, hạnh phúc cũng chỉ là một thứ ràng buộc. Có bao giờ anh nghĩ rằng, cô ấy cảm thấy ngột ngạt trong chính cái hạnh phúc nhỏ nhoi của mình không? Liên từng bảo tôi rằng, anh là ông Bụt của cô ấy. Có lẽ, giờ là lúc cô ấy muốn bước ra khỏi thế giới cổ tích, để tự đương đầu, tự khám phá. Hãy cho cô ấy thời gian, rồi cô ấy sẽ quay về…
         Rồi cô ấy sẽ quay về… - tôi ái ngại nói với chồng Liên, ngập ngừng bỏ lửng vế câu tiếp theo. Tôi nuốt vội cái ý nghĩ rằng Liên sẽ quay về khi nàng đã leo lên cái đỉnh cô đơn chất ngất của tự do vì những âm thanh phản kháng vọng lại từ chính trái tim tôi. Hơn 40 chục năm hầu như cô độc trên cõi đời này, tôi vẫn chưa bao giờ có ý nghĩ quay về, thế thì tại sao tôi dám trao cái hi vọng hão huyền đó cho chồng nàng. Giờ thì tôi hiểu, vì sao Liên đã biết rằng cả đời tôi là một cuộc trốn chạy. Thì ra, vì nàng cũng đã ấp ủ giấc mơ chạy trốn như tôi. Thì ra, nàng cũng là cái giống cuồng tự do như tôi.
***
Giờ này, không biết Liên đang ở chân trời góc bể nào. Chắc nàng không hay biết rằng, sự ra đi của nàng đã neo tôi lại Berkeley. Tôi quyết định ở lại, ngày ngày vẫn ra ngồi ở bến du thuyền để viết. Và chờ nàng. Giờ thì tôi bắt đầu tin, số mệnh đã khiến tôi chọn Berkeley làm nơi quay trở lại. Vì nàng đã ở đó chờ tôi từ trước khi quen biết tôi, để tiếp sức cho giấc mơ tự do huyễn hoặc của đời tôi, khi tôi đã bắt đầu mỏi gối chồn chân lê bước khắp thế gian. Nàng đang ở đâu đó, bước thay tôi những bước chân độc hành tự do tuyệt đối.
                                                Nguyễn Thị Thanh Lưu, 3/12/2014




[1] Bài hát San Francisco (Be sure to wear flowers in your hair) được viết bởi John Phillips và hát bởi Scott McKenzie năm 1967

Monday, December 1, 2014

Có những ngày như thế...

Có những ban mai, tôi thức dậy bằng ánh sáng của hoài nghi - thứ ánh sáng rùng rợn giết chết mọi tế bào yêu sống. Tôi thấy mình nằm đó, trong cái miệng đen ngòm của con quái vật mang tên Tuyệt Vọng. Nó đã ngoạm lấy tôi như thế nào và từ bao giờ, tôi không hay. Có lẽ nó đã chọn nuốt chửng tôi ngay trong giấc ngủ - khi tôi yếu đuối nhất và cô đơn nhất, giữa những giấc mơ phập phồng âu lo, giữa những hoài cảm hoang mang của biết bao lần dấn thân từ ngày mới lớn, giữa mê man những cơn đau tưởng đã ngủ yên trong tiềm thức bỗng thức dậy nhức nhối thịt da. Nó đã ngoạm lấy tôi giữa bóng tối lặng im - khi tôi nhắm mắt trút bỏ mọi xiêm y, trang sức để trần truồng trong từng ý nghĩ.
Có những ngày, những ý nghĩ đẹp đẽ về tình yêu và hạnh phúc bỏ mặc tôi hoàn toàn cho cái miệng tối âm u của Tuyệt Vọng. Tôi thấy tôi nằm đó, không chút sức lực kháng cự, bởi manh giáp tự vệ tôi cũng đã cởi bỏ mất rồi. Tôi đau đớn nhận ra hạnh phúc sợ hãi trốn trong chiếc áo giáp tôi vẫn mặc hàng ngày, và nó rời bỏ tôi khi tôi trút bỏ manh giáp ấy trước khi chìm sâu vào cơn ngủ. Hoá ra, hạnh phúc thuộc về tấm áo giáp tôi hằng mang chứ không thuộc về tôi. Hoá ra, tôi vẫn là tôi - trơ trọi buồn sầu nguyên thuỷ.
Có những ngày, tôi thức dậy, ngờ vực cả mặt trời.

Sunday, November 30, 2014

Lan man chuyện mua sắm

Trước khi quen biết và giao du với cô bạn là một shopaholic - một người nghiện mua sắm thứ thiệt, tôi chưa bao giờ thực sự nghĩ về việc mua sắm một cách nghiêm chỉnh. Đi với bạn nhiều, tôi cũng vỡ lẽ ra được đôi điều về văn hoá mua bán. Hồi ở Việt Nam, tôi thích đi mua sắm một mình để đỡ mất thời gian, cần gì thì cứ thế cắm cúi mà mua cho xong việc. Mua sắm đa phần là việc cần làm chứ chẳng phải là niềm vui thích gì, đấy là chưa kể đến nỗi nơm nớp lo sợ ra chợ bị ăn mắng, vào cửa hàng bị ăn nguýt (thế mới có chuyện đi mua sắm cũng phải căn giờ sao cho đừng phải làm người mở hàng!).
Cô bạn tôi quan niệm việc mua sắm hoàn toàn khác. Đối với cô, mua sắm là một thú vui lành mạnh, vì nó “thúc đẩy phát triển kinh tế, tăng cường giao lưu” (như lời cô nói đùa mỗi lần tôi phàn nàn cô mua sắm quá tay). Có lẽ cũng vì quan niệm như thế nên cô có những nguyên tắc rất rõ ràng khi đi mua sắm.
Một lần, tôi cùng cô bước vào một cửa tiệm thời trang quen thuộc (mà hầu như tuần nào cô cũng ghé). Như thường lệ, chúng tôi xem váy vóc, áo quần, trang sức và cô bạn tôi lựa được mấy món cô ưng ý. Dù không khuyến khích bạn mua sắm quá tay, nhưng hôm đó tôi đã nhiệt liệt ca ngợi chiếc đầm mà cô chọn, vì nó quả thực rất đẹp, hợp mốt và hợp với dáng người cô. Bình thường, chỉ cần tôi gật gù chứ không chau mày, nhăn trán là cô bạn đã quyết mua hàng rất lẹ, nhưng hôm đó, tôi kinh ngạc thấy cô quả quyết bỏ lại tất cả đám váy áo đã mất công lựa chọn, mặc vào cởi ra soi ngắm trước gương. Lúc bước ra khỏi cửa tiệm, không đợi tôi bày tỏ sự ngạc nhiên bằng một tràng câu hỏi đã thủ sẵn trong đầu, cô nghiêm nghị bảo: “từ giờ, mình sẽ không bao giờ mua đồ ở cửa tiệm đó nữa. Nếu lỡ hôm nào mình quên, bạn nhớ nhắc mình nhé! Cô nhân viên bán hàng mới ở đó rất kênh kiệu, không niềm nở chào đón khách, cũng không giúp đỡ khách và tỏ thái độ coi thường. Đây là lần thứ 2 mình chứng kiến cô ta cư xử như thế và mình không đời nào giúp cô ta kiếm thêm tiền với cái kiểu thái độ như vậy, dù đúng như bạn nói, chiếc đầm đó rất đẹp và mình rất thích nó”.
À, hoá ra là thế! Cô bạn tôi không muốn mua chiếc váy và những món đồ cô đã lựa được hôm ấy không phải vì không thích chúng mà vì không thích thái độ lạnh lùng của cô bán hàng. Dù thích chiếc váy vô cùng, cô cũng nhất quyết không mua vì không muốn cô nhân viên bán hàng kia kiếm được bất kì 1 xu phần trăm lợi nhuận nào từ những đồng tiền cô bỏ ra. Tôi đã không đoán ra được lí do chỉ vì tôi ít khi chú ý đến những việc mà tôi cho là tiểu tiết nhưng với cô lại là điều căn cốt. Trong khi tôi quan niệm mua bán cho được việc thì tôi chỉ chăm chăm nghĩ về món hàng định mua mà dễ dàng bỏ qua mọi tiểu tiết khác thì cô bạn tôi lại quan niệm mua sắm là thú vui, thế nên, việc cô được tận hưởng niềm vui ấy là quan trọng nhất. Vì thế, với cô, hàng hoá không phải là điều cốt lõi trong một cuộc mua bán mà thái độ của người bán hàng mới là điều quan trọng nhất. Sự tương tác, giao lưu với người bán hàng sẽ đem đến cho người mua cảm hứng mua sắm, thậm chí là những thông cảm, áy náy rất con người trong trường hợp ra về tay không. Đó là lí do vì sao tôi thấy cô bạn tôi rất thích trao đổi, nói chuyện với những người bán hàng về niềm đam mê thời trang, về kinh nghiệm mua sắm và đủ thứ khác trên đời. Có một đôi lần, cô bước ra khỏi cửa hàng không mua món đồ nào và tỏ ra ái ngại vì người bán hàng đã quá nhiệt tình. Cô bảo tôi lần sau nhất định sẽ quay lại mua cái gì đó, chỉ vì cô thích người bán hàng.
Ở Mỹ, khi bước vào một cửa tiệm, thông thường, các nhân viên sẽ cười rất tươi chào bạn và sẽ có một người chăm sóc bạn đến nơi đến chốn. Họ đến, tự giới thiệu tên, giới thiệu những món đồ đặc sắc và giá cả đặc biệt (nếu có) rồi đề nghị nếu cần giúp đỡ gì thì cứ gọi họ. Họ sẽ để mắt đến bạn thường xuyên, để cầm giúp những món đồ bạn đã chọn, để tư vấn kịp thời nếu thấy bạn tỏ ra lúng túng… Các nhân viên khác khi tình cờ đi ngang qua bạn, lúc nào cũng hỏi thăm xem mọi việc có ổn không? Khi bạn trả tiền, câu hỏi đầu môi của người thu ngân luôn là: hôm nay có ai giúp đỡ bạn không? Đó là cơ hội để người mua bày tỏ sự cảm ơn hoặc không hài lòng với các nhân viên bán hàng, để cửa tiệm căn cứ đánh giá lao động của nhân viên. Đó cũng là một điều kiện khiến người mua sẽ nhớ đến tên người bán hàng đã giúp đỡ mình và dễ dàng nhận ra họ khi quay lại. Trên hết, đó là một cách để tạo ra những kết giao thân thiện đầy tính người - cái gốc cội cho mọi cuộc bán mua được bền chặt, lâu dài.
Ở Mỹ, đi chợ cũng là đi chơi. Không chỉ những phiên chợ nông dân cuối tuần mà ngay cả những chợ hoa quả, nông sản hàng ngày đều mang một không khí thư giãn, vui vẻ. Ở đó, những người bán hàng dù tất bật sắp xếp hàng hoá vẫn không quên niềm nở chào hỏi, mời tôi nếm thử vài loại hoa quả mới nhập hoặc nựng nịu bọn trẻ con rồi dúi vào tay chúng mấy chiếc bánh nhỏ khi thấy chúng tỏ ra thiếu hợp tác với mẹ giữa chốn đông người. Vào tháng 10, chợ Monterey gần nhà tôi được trang trí đẹp đẽ với rất nhiều bù nhìn rơm, các bó hoa khô rồi còn dành hẳn một góc để tạo thành một quả đồi bí đỏ chủ yếu cho bọn trẻ con đến leo trèo, nghịch ngợm và giúp bố mẹ chọn bí đỏ cho lễ Halloween. Không khí hội hè bắt đầu từ chợ… Nó khiến tôi chạnh nhớ đến những phiên chợ ở nhà quê và ngậm ngùi nghĩ đến những cái chợ xô bồ, sặc sụa mùi tiền nơi phố thị.
Ngẫm lại, tôi mới thấy cái văn hoá chợ búa đô thị của Việt Nam đã “vật hoá” con người đến mức người ta chỉ chăm chắm vào những món hàng mà sẵn sàng bỏ qua những chuyện rất con người: ví dụ như chuyện cái tên và vài câu thăm hỏi.

Viết đến đây, tôi lại nhớ đến một nghịch lí rất tức cười khi đi mua sắm ở Việt Nam. Cứ hễ lúc nào tôi chủ tâm ăn bận thật đơn giản để đi mua sắm cho dễ (để tiện cởi ra mặc vào) thì y như rằng, tôi thường xuyên bị các cô bán hàng ra ngấm vào nguýt rất khinh khi, chắc vì họ thấy tôi ăn mặc tuềnh toàng thì nghĩ rằng tôi chắc chỉ ghé vào khu mua sắm để hưởng xái tí điều hoà cho mát chứ tiền đâu mà đòi mua. Lần khác, tôi có hẹn với bạn ở quán café ngay trong khu shopping, nhân đến sớm, tôi dạo bước lòng vòng giết thời gian và kinh ngạc thấy các cô bán hàng ai nấy mặt tươi như hoa đón chào, dù mấy hôm trước tôi vừa bị họ cho ăn nguýt. Rồi tôi chợt nghĩ ra, vì hôm đó tôi ăn mặc sành điệu khác hẳn cái con bé quần shorts dép tông xuề xoà họ thấy hôm nọ. Tiếc cho các cô, hôm đó tôi không hề có ý định mua bán gì, thế là nụ cười chào hàng của các cô đâm ra ế ẩm. Giá mà các cô đã dành những nụ cười ấy cho cái con bé mặc quần shorts, đi dép tông hôm nọ, giá mà các cô trong khi tâm tâm niệm niệm học thuộc lòng câu “khách hàng là thượng đế” thì cũng không quên mất rằng, thượng đế rất thích vi hành trong bộ dạng bình dân.