(Tặng
anh Ch.)
Không có gì tuyệt hơn khi được bắt đầu những
trang đầu tiên của cuốn tiểu thuyết mới trên đồi cỏ lộng gió bên bến du thuyền
Berkeley vào một ngày hè. Tôi thích đặt bút viết những dòng chữ mới trên trang
giấy trắng tinh trong cái khoái cảm dịu dàng được mang đến bởi những ngọn cỏ úa
vàng dưới cơn nắng chói cọ vào chân, những cơn gió ẩm ướt sung sức tạt ngang má
mát lạnh. Mùa hè Berkeley luôn quyến hoặc tôi bởi sự trộn lẫn độc đáo của cái nắng
bỏng da và những cơn gió lạnh se thổi vào từ bờ Vịnh. Đó là lí do mà vào những
mùa hè có ý định khởi thảo một cuốn sách mới, tôi luôn chọn đến ở Berkeley chừng
3 tháng, chỉ để ra ngồi đồng ở cái công viên ngay bên cạnh bến du thuyền này và
viết. Dù đã có lí do hẳn hoi song mỗi lần quay lại Berkeley, tôi vẫn không khỏi
băn khoăn và cố gắng tìm thêm lời biện giải nào khác cho việc trở đi trở lại
đúng một địa danh của mọi sự khởi đầu viết lách quan trọng. Thực tình, đó là điều
gần như không thể lí giải nổi với tôi - một gã đã quen sống lang bạt kì hồ suốt
nửa đời người, luôn luôn tìm kiếm niềm vui và cảm hứng trong những hành trình
ngẫu hứng chưa bao giờ kết thúc. Ngay cả thành phố Florence xinh đẹp quê hương
tôi cũng không thể níu giữ đôi chân cuồng đi và trái tim khát mới của tôi.
Lần đầu tiên tôi đi xa là chuyến hành trình đến
Mỹ từ 25 năm trước với ý định tìm lại người cha chưa một lần biết mặt của
tôi (hay nói đúng hơn là người tình thất lạc của mẹ tôi). Hơn 40 năm trước, mẹ
tôi - một cô tiểu thư con nhà quyền quý đi du lịch bằng tàu biển cùng cha mẹ đến
thành phố San Francisco rồi nằng nặc đòi ở lại đây vì muốn được hoà vào đám
đông hippie trẻ tuổi say sưa trong âm nhạc và những vũ điệu tự do ở quận
Haight-Ashbury. Rồi bà hiến dâng tình yêu si mê đầu đời cho một gã hippie người
Texas - xứ sở của những chàng cao bồi. Khi biết mẹ tôi mang trong mình giọt máu
cao bồi, gã đàn ông của bà đã dứt áo ra đi, không đợi mẹ tôi kịp tận hưởng ý
nghĩ sung sướng về việc được làm mẹ và chút khoái cảm còn vương vất sau một đêm
làm tình mệt nhoài với người yêu. Thế mà bà không hề hận cha tôi. Mỗi lần nhắc
đến ông, bà luôn bảo rằng bà hiểu sự ra đi của ông và chấp nhận rằng, người đàn
ông của bà tôn thờ tự do, hiến dâng đời mình cho tự do. Năm đó, mẹ tôi 18 tuổi.
Bà sinh tôi ra ở ngay giữa trung tâm của những người hippie và đặt tên tôi là
Francisco. 2 năm sau, ông bà nội tôi cương quyết kéo mẹ tôi về Ý để tiện chăm
sóc tôi và để mẹ tôi quay trở lại trường học. Bà ở vậy nuôi tôi và vẫn luôn kể
về người đàn ông tự do của bà cho tôi nghe vào những ngày mùa hè rực nắng - những ngày dễ gợi nhắc đến Summer of
Love xa xưa trong tuổi trẻ của bà. Tôi nhớ dáng mẹ tôi ngồi bên hàng hiên, trong chiếc váy hoa thắt eo, mắt sáng bừng
long lanh theo từng lời hát bà lẩm nhẩm suốt ngày, đến độ tôi đã thuộc lòng từ
tuổi bé thơ:
For those who come to San Francisco
Summertime will be a love-in there
In the streets of San Francisco
Gentle
people with flowers in their hair
Năm 18 tuổi, khi tôi ngỏ ý sang Mỹ tìm cha, mẹ
tôi thảng thốt nhìn đứa con trai gầy gò nhưng có đôi mắt sáng và cái xương hàm
vuông vắn hệt người đàn ông cao bồi của bà, rồi cười buồn nói với tôi: đã đến lúc rồi, con cứ đi đi. Cứ như thể
bà đã biết trước rằng, đến một ngày, tôi sẽ rời xa bà và bắt đầu cuộc đời lang
bạt. Bà đoán không sai, từ cái ôm tạm biệt với mẹ tôi năm 18 tuổi, tôi đã bắt đầu
những chuyến lang thang vô định của đời tôi. Và tôi bắt đầu viết.
***
Tôi thường chọn ngồi bên sườn đồi, hướng nhìn
ra phía Vịnh San Francisco, xa xa là cây cầu Cổng Vàng ẩn hiện trong mây. Thay
vì ngồi trong những quán café thơm tho, tiện nghi, tôi chọn ngồi viết ở công
viên, trong nắng gió, trong tiếng lá cây xào xạc, tiếng chim ríu rít và tiếng
trẻ con nô đùa. Ở đó, tôi thấy tôi tự do và không bị ai làm phiền (dù là những
sự làm phiền hết mực tử tế, ví như cậu bồi bàn hỏi tôi có cần thêm café
không?). Thay vì viết bằng máy tính, tôi chọn lối viết lách cũ kĩ thô sơ bằng
bút mực và giấy trắng. Sau nhiều năm lang thang, tôi nghiệm ra rằng, càng giản
tiện, càng tự do. Với một cuốn sổ dày và vài ba cây bút, tôi có thể ngồi lì ở
công viên từ sáng sớm đến chiều muộn mà không phải lo máy tính hết điện, không
sợ lũ chim xấu chơi bay qua ị cho một bãi ngay giữa bàn phím. Rõ ràng, với bút
và giấy, tôi tự do hơn những người gõ bàn phím nhan nhản quanh tôi. Và cũng với
bút và giấy, tôi được hưởng thụ đặc quyền quay trở lại với những ý nghĩ từng bị
gạch xoá trong quá khứ. Không ít lần, tôi quay ngược lại những dòng chữ bị dập
xoá thê thảm trong một cơn bí bức ngôn từ và cảm hứng nào đó để rồi bắt lại được
mạch viết, nuôi dưỡng được một cành nhánh mới cho câu chuyện dang dở. Đấy là
chưa kể đến cảm giác tuyệt diệu khi thấy những cảm xúc của mình được vật chất
hoá tức thì qua cái miết chặt của những ngón tay vào cây bút.
Thường thì một khi đã bắt đầu, tôi ít khi
ngưng viết cho đến khi tay mỏi nhừ vì tì miết quá mạnh. Viết suốt nửa đời người
mà tôi vẫn không nhớ được một kinh nghiệm sơ đẳng rằng càng lên gân, tôi càng
viết chậm và càng trở nên cuống quýt sợ hãi những ý nghĩ sẽ rời bỏ tôi trước
khi tôi bắt kịp chúng. Thực tế là khi bắt đầu một cơn hứng khởi, tôi hầu như
quên tiệt mọi bài học và kinh nghiệm. Tôi lại nguyên sơ như giấy, lại ngốc nghếch
mắm môi mắm lợi dồn hết sức lực vào bàn tay phải để giải thoát nguồn cảm hứng
đang cuồn cuộn trong lòng, quên béng rằng cứ lên gân như thế độ dăm phút là những
ngón tay tôi trở nên tê cứng. Trong một lần dừng viết bởi một cơn tê tay như thế,
tôi ngước mắt nhìn lên và thấy nàng. Tôi chạm phải ánh mắt nàng và ngay lập tức,
nàng nở một nụ cười đáp trả. Nàng có khuôn mặt trẻ thơ và nụ cười bừng sáng, giống
hệt như nụ cười của cô bé con đi bên cạnh nàng. Hình như cô bé con tò mò chỉ trỏ
người đàn ông ngồi viết một mình bên cái bàn bé xíu kì quặc khi họ bước ngang
qua tôi và nàng đang cố lôi kéo cô con gái ngây ngô đi sang hướng khác. Nụ cười
hàm ý thông cảm của nàng đáng yêu đến nỗi tôi cứ ngây ra nhìn cho đến khi hai mẹ
con họ đi xa dần.
Những ngày sau đó, tôi bắt đầu để ý hơn đến
xung quanh trong những lần dừng bút vì tê mỏi. Và hầu như ngày nào, tôi cũng thấy
hai mẹ con nàng vào đầu giờ chiều. Chắc là họ vẫn thường đến đây nhưng tôi chưa
bao giờ để ý. Nàng hay mặc những chiếc quần lụa thẫm màu có vẽ hoặc thêu hoa
văn lạ mắt cùng những chiếc áo thun bó, để lộ cái eo thon nhỏ và vòng hông nở gợi
cảm. Cô con gái chừng 3,4 tuổi hay thắt bím tóc hai bên, trông lí lắc đáng yêu
khi đi bên mẹ. Mẹ con nàng thường đi dạo dưới chân đồi và thi thoảng, cô con
gái nghịch ngợm bất thình lình trèo ngược lên đồi để nàng mướt mải đuổi theo,
cười váng động trong nắng chiều. Ngồi ở sườn đồi mỗi ngày, tôi đã nhiều bận ngắm
hai mẹ con họ say sưa đến buông rơi cả bút. Nhân một hôm nản lòng vì gạch xoá
quá nhiều, tôi quyết định vứt bút giấy qua một bên, đứng dậy bắt chuyện với mẹ
con nàng. Đang ngồi ăn vặt với con gái, nàng ngước nhìn tôi vẫn với nụ cười rạng
rỡ như đã sẵn sàng cho cuộc làm quen này từ lâu lắm: Chào anh! Anh không viết nữa à? Tôi lắc đầu, than thở rằng hôm nay
là ngày quái quỷ gì mà tôi chỉ ngồi gạch xoá chứ không viết nổi chữ nào. Nàng
cười an ủi: gạch xoá cũng là việc cần làm
mà. Không biết cách vào chuyện tự nhiên hay đôi mắt lúc nào cũng lấp loá nắng
và đôi môi cong luôn chực sẵn nụ cười của nàng khiến tôi bị thu hút. Tôi say
sưa tán chuyện trên trời dưới biển với nàng mất một lúc mới nhớ ra chưa hỏi
tên.
-
Xin lỗi,
chị tên gì nhỉ?
-
Liên. Còn
anh?
-
Lyann?
- Không,
Liên, trong tiếng Việt nghĩa là hoa sen. Chắc là hơi khó cho anh nhỉ, anh cứ gọi
tôi là Lyann cũng được. Cái tên cũng đâu quan trọng gì, phải không?
- Ừ, chị
nói cũng phải, nhưng tôi sẽ nhớ tên chị nghĩa là hoa sen. Rất đẹp và rất hợp với
chị!
Nàng lại cười, mái tóc đen nhánh xoã ngang
lưng tuôn trong gió như một mảnh lụa mềm.
Sau buổi hôm đó, ngày nào
tôi cũng tự cho phép mình dành riêng vài ba chục phút chuyện gẫu với Liên. Nàng
lớn lên ở Sài Gòn, trong một gia đình nghèo đông con, cha mẹ gây gổ đánh lộn suốt
ngày chỉ vì chuyện tiền bạc. Một lần giúp người quen đứng bán hàng lưu niệm
trên đường Đồng Khởi vào dịp nghỉ hè, nàng tình cờ gặp một chàng trai người Mỹ
vừa tốt nghiệp đại học sang Việt Nam du lịch. Anh chàng người Mỹ mê say cô gái
Việt Nam nhỏ bé có nước da nâu giòn đến độ quyết cưới cô làm vợ chỉ sau vài
tháng quen biết. Nàng nhận lời cầu hôn chóng vánh của gã trai tóc vàng mắt xanh
trong men say tình đầu choáng váng và nỗi khát khao được trốn chạy khỏi ngôi
nhà xiêu vẹo bởi dấu ấn những cơn bạo hành của cha mẹ. Năm đó, Liên 18 tuổi. Anh ấy là người đàn ông đầu tiên và duy nhất
của tôi. Một người đàn ông hoàn hảo. Liên kể về chồng với một vẻ biết ơn nhẫn
nại. Chồng nàng làm nghề kiến trúc sư và rất có tài, theo như lời Liên kể. Sau
khi đưa cô vợ da vàng mũi tẹt tuổi mới lớn lơ ngơ sang Mỹ, chồng Liên giúp nàng
học cao đẳng ngành kinh tế mà nàng đã chọn bừa trong lúc chưa xác định được
mình muốn gì. Tốt nghiệp rồi, Liên mới nhận ra là nàng không thích ngành kinh tế.
Trong lúc phân vân về nghề nghiệp, nàng có bầu và lãnh nhận thiên chức làm mẹ tự
nhiên, tạm quên đi việc phải tìm một công việc gì đó cho chính mình. Gần 10 năm
ở Mỹ, thế giới của Liên hầu như chỉ gói gọn trong hai chữ gia đình. Nàng ở nhà
chăm sóc con cái và làm một cô vợ ngoan, tận hưởng những yêu chiều của anh chồng
giỏi giang nhưng bận rộn.
Nếu không
gặp anh ấy, chắc giờ này tôi đang đứng bán hàng ở một tiệm tạp hoá nào đó ở Việt
Nam, như mẹ tôi và các chị tôi. Liên ngậm ngùi nói, mắt nhìn bâng
quơ về phía những gợn sóng lấp loá dưới nắng ngoài vịnh. Rồi đột nhiên, nàng hất
mớ tóc qua bên vai, ngoảnh sang nhìn tôi, cười: Anh ấy là ông Bụt của đời tôi. Một ông Bụt yêu say đắm cô gái nghèo mà
ông ấy đã giúp. Tôi chăm chắm nhìn đôi môi cong vừa mấp máy nói vừa nhếch
lên cười của nàng, toan thốt lên: Dĩ
nhiên là ông Bụt ấy phải yêu em rồi! Một người đẹp như em, không ai muốn bỏ
qua, kể cả Bụt! Rồi tôi bị cái nhìn chiếu tướng của Liên làm cho bối rối,
bèn nuốt vội ý nghĩ bằng một cái đằng hắng vu vơ.
- Vì sao anh chạy trốn? Một lần, Liên hỏi tôi khi nghe tôi
kể chuyện tôi đã sang Mỹ như thế nào.
- Tôi đâu có chạy trốn? Tôi phản ứng. Tôi đã ra đi, bắt đầu từ một sự kiếm tìm đấy chứ!
- Nhưng anh đã không tìm thấy ông ấy, đúng không? Hoặc là anh chưa từng
thực sự tìm kiếm? Liên vẫn vặn vẹo. Nàng thông minh đến mức nhiều lúc khiến
tôi không kịp xử trí. Tôi ừ hữ trong cơn kinh ngạc ngấm ngầm về câu hỏi bén ngọt
của nàng, rồi cố tình lái câu chuyện sang hướng khác: Thực ra, bây giờ, tôi đi là để viết…
- Viết
cũng là một cách trốn chạy đấy thôi, anh không nghĩ thế sao?
Lần này, tôi chọn cách im lặng.
Tôi không muốn chấp nhận sự thật rằng tôi đang trốn chạy, dù trong thâm tâm,
tôi biết nàng đã đúng. Tôi đi tìm cha ư? Không, tôi chỉ đang cố gắng trốn chạy
khỏi những ý nghĩ về người cha mà mẹ tôi vẽ nên cho tôi. Tôi đi tìm kiếm cảm hứng
ư? Không, tôi chỉ đang trốn chạy những điều cũ kĩ đang lan dần trong từng huyết
mạch của tôi, trốn chạy những buông xuôi mỏi mệt của tâm hồn đang già nua đi
không cách nào cứu vãn nổi mà thôi. Tôi đang đi tìm kiếm tự do ư? Không, tôi chỉ
đang trốn chạy những ràng buộc đời thường bằng những chuyến đi vô định. Những ý
nghĩ sắc nhọn của nàng đâm tôi trọng thương. Làm sao một người đàn bà trẻ lại
có thể hiểu tôi đến thế, chỉ qua những câu chuyện bâng quơ ở công viên sau vài
tháng trời quen biết?
***
Ba tháng hè ở Berkeley đã
trôi qua trong niềm kinh ngạc và hưng phấn tột độ của tôi, bởi tôi nhận ra tôi
đã bồn chồn buông bút chờ Liên vào đầu giờ chiều hàng ngày. Những câu chuyện
phiếm với nàng đẩy tôi đến những đỉnh cao hứng khởi và tôi đã viết say sưa dưới
nắng chiều, sau mỗi mấy chục phút nghỉ giải lao nói chuyện với nàng. Dĩ nhiên,
Liên không hề hay biết, nàng đã khiến cuốn sách của tôi có những trang viết
trác tuyệt nhường nào cũng như nàng không bao giờ biết tôi đã mơ thấy nàng hằng
đêm ra sao.
Một hôm, vào những ngày cuối
cùng còn lại ở Berkeley của tôi, nàng rụt rè đề nghị tôi được đọc vài trang bản
thảo của cuốn tiểu thuyết tôi đang viết dở. Tôi cười, bảo rằng đó là việc chưa
từng có trong tiền lệ, trong lòng nảy ra một nỗi ngờ vực: chẳng nhẽ, nàng thông
minh đến độ đoán được rằng, trong cuốn tiểu thuyết mới của tôi có bóng dáng
nàng chăng? Có thể lắm! Như đoán ra ý tôi, nàng phân bua: Từ lâu, tôi chỉ muốn đọc một cái gì mới ráo mực và còn trong vòng bí mật.
Tình cờ được đánh bạn với một nhà văn, tôi đã nghĩ biết đâu tôi có cơ hội thoả
nguyện ước mong! Mà này, chúng ta là bạn, phải không? Tôi mỉm cười: ừ, là bạn. Và tôi sẽ phá lệ cho chị đọc vài
trang ngay tại đây, ngay bây giờ. Nàng reo lên thích thú như một đứa trẻ, rồi
trong khi tôi nói chuyện với cô con gái nhỏ của nàng, nàng chăm chú đọc. Thi
thoảng liếc sang, tôi thấy sắc mặt nàng đổi thay lạ lùng. Cái vẻ hạnh phúc mãn
nguyện tràn trề tôi vẫn thấy bỗng dưng biến mất, thay vào đó là một nỗi gì đau
đáu, phảng phất chút buồn bã, tiếc nuối… Hình như, tôi đã cho nàng đọc đúng những
trang viết về sự đi. Khi Liên ngẩng mặt lên khỏi mấy trang giấy, tôi thoáng thấy
một giọt nước mắt trên khoé mi nàng. Liên im lặng nhìn ra phía cây cầu Cổng
Vàng rồi nói với tôi mà như thể đang nói với gió: Rất đẹp! Rất thúc giục… Rồi nàng làm điệu bộ hất tóc qua vai quen
thuộc trước khi quay sang tôi, nở nụ cười sáng rỡ quen thuộc, hỏi: Ngày kia anh sẽ đi phải không, Francisco? Tôi
gật, đầu vẫn u u nghĩ về giọt nước mắt của nàng.
Ngày hôm sau, tôi đến công
viên ngồi nhưng không viết gì, dù giấy bút vẫn bày ra trước mặt. Tôi quá sốt ruột
chờ đợi Liên nên không thể cầm nổi bút. Rồi nàng đến, đúng 1:30’ chiều như lệ
thường, không sớm hơn, không trễ hơn một phút. Hôm đó, nàng mặc một chiếc váy lụa
xanh thẫm màu lá cây dài chấm gót và một cái áo thun dài tay màu trắng. Màu váy
áo của nàng làm tôi nghĩ đến những đoá sen trắng xanh tôi vẫn hay mơ thấy. Nàng
ùa đến chào tôi, rồi nói trong hơi thở gấp, vẻ hồi hộp: Anh đây rồi, tôi chỉ tranh thủ chạy ra chào tạm biệt vì hôm nay tôi phải
về sớm đưa con đi tiêm phòng. Không đợi tôi trả lời, nàng giúi vào tay tôi
một cái hộp nhỏ, thắt nơ hồng: Quà cho
anh. Hãy đọc nhé! Đây là những gì tôi tự viết cho mình sau những đêm mộng mị
triền miên. Cũng là những thứ bí mật chưa ai từng được đọc. Tôi mấp máy nói
cảm ơn và không cưỡng được ôm chầm lấy nàng. Khi cảm thấy thân thể mảnh mai của
nàng trong vòng tay cũng là lúc một thứ cảm xúc mãnh liệt cuộn lên trong lồng
ngực tôi và ý nghĩ phải quay lại Berkeley kéo đến trong đầu, tôi nói với Liên: Tôi sẽ quay lại. Mùa hè chưa hết, vẫn chưa hết,
phải không? Nàng thầm thì qua vai: Phải
rồi, còn mùa hè Ấn Độ nữa…
Tôi sẽ về Ý thăm mẹ tôi chừng một tháng, rồi tôi sẽ quay lại, tận hưởng
nốt mùa hè rớt ở Berkeley. Chị sẽ vẫn đi công viên giờ này chứ? Tôi sẽ gặp lại
chị phải không? Tôi nói nhanh, tránh nhìn vào mắt Liên vì sợ sẽ bị
cái nhìn như chiếu tướng của nàng làm bối rối đến độ phải nuốt ngược những điều
muốn nói vào trong. Làm ra vẻ không để ý lắm đến trạng thái xúc động khác thường
của tôi, Liên nắm tay tôi, mím môi cười tạm biệt: Chúc anh may mắn với cuốn sách mới. Đi được mấy bước, nàng ngoái lại
nhìn tôi rồi nói: Tôi nghĩ, tôi cũng muốn
làm một người viết như anh. Nụ cười rạng rỡ của nàng tan trong nắng chiều.
***
Tôi không ngờ rằng, đó là lần
cuối cùng tôi gặp Liên. Nàng đã không đếm xỉa gì đến cái hẹn quay trở lại của
tôi. Mà lẽ ra, tôi phải đoán ra điều đó chứ, lẽ ra tôi phải biết khi đọc những
dòng nàng đã viết và chia sẻ với tôi trong cái hộp nhỏ nàng tặng tôi chiều hôm
đó:
Có những
ban mai, tôi thức dậy bằng ánh sáng của hoài nghi - thứ ánh sáng rùng rợn giết
chết mọi tế bào yêu sống. Tôi thấy mình nằm đó, trong cái miệng đen ngòm của
con quái vật mang tên Tuyệt Vọng. Nó đã ngoạm lấy tôi như thế nào và từ bao giờ,
tôi không hay. Có lẽ nó đã chọn nuốt chửng tôi ngay trong giấc ngủ - khi tôi yếu
đuối nhất và cô đơn nhất, giữa những giấc mơ phập phồng âu lo, giữa những hoài
cảm hoang mang của biết bao lần dấn thân từ ngày mới lớn, giữa mê man những cơn
đau tưởng đã ngủ yên trong tiềm thức bỗng thức dậy nhức nhối thịt da. Nó đã ngoạm
lấy tôi giữa bóng tối lặng im - khi tôi nhắm mắt trút bỏ mọi xiêm y, trang sức
để trần truồng trong từng ý nghĩ.
Có những
ngày, những ý nghĩ đẹp đẽ về tình yêu và hạnh phúc bỏ mặc tôi hoàn toàn cho cái
miệng tối âm u của Tuyệt Vọng. Tôi thấy tôi nằm đó, không chút sức lực kháng cự,
bởi manh giáp tự vệ tôi cũng đã cởi bỏ mất rồi. Tôi đau đớn nhận ra hạnh phúc sợ
hãi trốn trong chiếc áo giáp tôi vẫn mặc hàng ngày, và nó rời bỏ tôi khi tôi
trút bỏ manh giáp ấy trước khi chìm sâu vào cơn ngủ. Hoá ra, hạnh phúc thuộc về
tấm áo giáp tôi hằng mang chứ không thuộc về tôi. Hoá ra, tôi vẫn là tôi - trơ
trọi buồn sầu nguyên thuỷ.
Có những
ngày, tôi thức dậy, ngờ vực cả mặt trời.
Nàng đã viết như thế và cho
tôi đọc, thế mà tôi không hiểu ra. Ngu ngốc làm sao! Lẽ ra, tôi không nên tặc
lưỡi bỏ qua những giấc mơ khiến tôi ngộp thở nhiều đêm ở Florence - những giấc
mơ dày đặc những đoá sen trắng xanh và tóc, và mắt, và môi nàng. Lẽ ra, tôi
không nên gạt bỏ ý nghĩ đã từng thiêu đốt tôi mỗi sáng sớm thức dậy ở Florence,
rằng phải quay lại Berkeley ngay lập tức. Lẽ ra, tôi phải biết, nàng sẽ làm như
thế ngay từ buổi chiều chào tạm biệt ấy, khi nàng nói rằng nàng cũng muốn làm một
người viết như tôi. Bao nhiêu dấu hiệu, bao nhiêu ám chỉ, thế mà tôi ngớ ngẩn
không nhận ra. Cái thằng tôi ngu ngốc chỉ nhận ra nàng không còn ở đó nữa khi
đã quay lại công viên bến du thuyền Berkeley sau ba tuần trời ruột gan như lửa
đốt ở quê nhà. Suốt một tuần đến công viên ngồi đằng đẵng đợi mà không thấy
bóng nàng đâu, tôi vẫn tự nhủ rằng chắc nàng đi nghỉ, vả lại, tôi đã hẹn nàng
quay lại sau 1 tháng, chứ không phải 3 tuần. Tôi đành tự khuây khoả mình bằng
việc đọc những gì nàng viết. Nhưng càng đọc, tôi càng thấy lo sợ. Cho đến buổi
sáng đầu tiên sau 1 tháng trời xa cách, khi ăn một cú đấm thôi sơn vào mặt, tôi
mới hoảng hốt nhận ra điều tôi lo sợ đã biến thành sự thật. Nàng đã bỏ đi.
Sáng hôm đó, đang ngồi trầm
ngâm nhìn ra Vịnh, tôi giật mình nghe tiếng hỏi giật giọng: Anh là Francisco phải không? Vừa mới ngước
nhìn lên và trả lời: à, vâng theo
quán tính, chưa kịp định thần thì tôi đã thấy mình bị túm cổ áo quăng sang một
bên. Rồi tôi lãnh trọn một cú đấm như trời giáng vào mặt.
Vợ tôi đâu? Liên đâu? Gã đàn ông tóc vàng, mắt
xanh cao lớn, điển trai gầm gừ hỏi tôi. Nghe đến tên nàng, tôi bật dậy, quên cả
cơn đau buốt bên mang tai vì cú đấm, hỏi dồn: Cô ấy đâu? Anh là chồng của cô ấy phải không? Cô ấy bỏ đi ư? Đang
hùng hổ, nghe thấy tôi hỏi dồn với một vẻ ngơ ngác tuyệt đối, gã đàn ông bỗng
oà lên nức nở: Anh là ai? Sao cô ấy lại bảo
tôi đến gặp anh để biết lí do cô ấy ra đi? Tôi sững người. Trời ơi, hoá ra,
nàng phó thác gánh nặng này cho tôi bằng món quà chia tay. Nàng bắt tôi đọc những
gì nàng viết để giải thích với chồng nàng về những ẩn dụ, những ám chỉ đầy ẩn ức
trong những giấc mơ của nàng. Tôi giận dữ nghĩ đến nàng, nghĩ đến cái ý tưởng
quay lại Berkeley chỉ vì nàng của tôi. Sao mà tôi ngu ngốc thế?
Mất một lúc, tôi mới bình
tĩnh lại để ngồi xuống bên cạnh anh chồng tội nghiệp của nàng, cố gắng giải
thích thật rành rẽ những gì nàng đã viết. Có vẻ như anh ta không hiểu gì, vẫn
luôn miệng hỏi: Tôi đã làm gì sai? Tôi rất
yêu cô ấy. Tôi chỉ muốn bao bọc, che chở cô ấy, muốn cô ấy được hạnh phúc. Sao
cô ấy lại rời bỏ tôi, rời bỏ mái ấm gia đình? Xem chừng mọi lí giải đều vô
nghĩa trước nỗi đau, tôi thở dài nói với anh ta: Đối với cô ấy, hạnh phúc cũng chỉ là một thứ ràng buộc. Có bao giờ anh
nghĩ rằng, cô ấy cảm thấy ngột ngạt trong chính cái hạnh phúc nhỏ nhoi của mình không? Liên từng bảo tôi rằng, anh là ông Bụt của cô ấy. Có lẽ, giờ
là lúc cô ấy muốn bước ra khỏi thế giới cổ tích, để tự đương đầu, tự khám phá.
Hãy cho cô ấy thời gian, rồi cô ấy sẽ quay về…
Rồi cô ấy sẽ quay về… - tôi ái ngại nói với chồng
Liên, ngập ngừng bỏ lửng vế câu tiếp theo. Tôi nuốt vội cái ý nghĩ rằng Liên sẽ
quay về khi nàng đã leo lên cái đỉnh cô đơn chất ngất của tự do vì những âm
thanh phản kháng vọng lại từ chính trái tim tôi. Hơn 40 chục năm hầu như cô độc
trên cõi đời này, tôi vẫn chưa bao giờ có ý nghĩ quay về, thế thì tại sao tôi
dám trao cái hi vọng hão huyền đó cho chồng nàng. Giờ thì tôi hiểu, vì sao Liên
đã biết rằng cả đời tôi là một cuộc trốn chạy. Thì ra, vì nàng cũng đã ấp ủ giấc
mơ chạy trốn như tôi. Thì ra, nàng cũng là cái giống cuồng tự do như tôi.
***
Giờ này, không biết Liên đang ở chân trời góc bể
nào. Chắc nàng không hay biết rằng, sự ra đi của nàng đã neo tôi lại Berkeley.
Tôi quyết định ở lại, ngày ngày vẫn ra ngồi ở bến du thuyền để viết. Và chờ
nàng. Giờ thì tôi bắt đầu tin, số mệnh đã khiến tôi chọn Berkeley làm nơi quay
trở lại. Vì nàng đã ở đó chờ tôi từ trước khi quen biết tôi, để tiếp sức cho giấc
mơ tự do huyễn hoặc của đời tôi, khi tôi đã bắt đầu mỏi gối chồn chân lê bước
khắp thế gian. Nàng đang ở đâu đó, bước thay tôi những bước chân độc hành tự do
tuyệt đối.
Nguyễn Thị Thanh Lưu, 3/12/2014