Tuesday, June 2, 2015

Những lời vệ cỏ...


         Tôi yêu những vệ cỏ từ thuở thiếu thời. Những vệ cỏ ướt lầm sương sớm một thời cuốc bộ đi học trường làng. Những vệ cỏ cháy khô nắng hè thuở trốn mẹ vứt dép chạy chân trần dang nắng bắt cào cào châu chấu. Những vệ cỏ mù bụi trên cái sân vận động trước cổng trường, chiều nào học xong cũng nấn ná vài giờ đá bóng. Những vệ cỏ tuổi thiếu nữ mộng mơ sẵn sàng dừng xe đạp giữa trưa nắng chang chang trên đường đến trường để ngắm mấy bông hoa dại, rồi cùng cô bạn gái thân đặt tên cho hoa, như thể hai đứa vừa có phát hiện mới.Những vệ cỏ đã trở thành kí ức xa xăm trên mọi con đường tôi đi qua thời thơ ấu. Tôi lớn lên, hết thời chân trần, lội bộ, hết thời nghêu ngao tha thẩn đường ngang ngõ tắt. Tôi đi giày cao gót, đi xe máy, xe hơi và thảng hoặc, trong những nỗi chán chường tốc độ, tôi nhớ về những vệ cỏ thanh thản của đời tôi.
         Tôi giã từ cuộc sống chóng mặt ở Hà Nội, Sài Gòn sang Mỹ. Tôi bắt đầu lại từ đầu, lại bắt đầu nhặt nhạnh vui từ vệ cỏ, trên những con đường xa quê nhà nửa vòng trái đất. Dẫu vệ cỏ nơi xứ lạ tôi qua ngập tràn hoa lá xanh tươi, chúng vẫn gợi nhắc tôi rất nhiều đến những vệ cỏ ấu thơ sực nức mùi bùn đất. Bởi tôi tin rằng, vệ cỏ ở đâu cũng nói những lời giống nhau, những lời níu chân người bước vội.
          Hoa lá vẫy chào như nhắc nhủ khách bộ hành chậm bước lại, dừng mắt vài giây mà thưởng thức một niềm vui. Ngắm hoa rồi, ta mới thấm thía lẽ này: mỗi bông hoa, dẫu phai tàn trong chốc lát, vẫn nở hết mình dâng hiến cho đời sống. Vậy tại sao ta lại có thể sống thờ ơ? Tàn phai trước mắt đâu phải là cái cớ...
           Một lần, vệ cỏ kể với tôi một câu chuyện xúc động. Bữa đó, không chỉ thấy hoa lá chim muông bên những vệ cỏ quen, tôi sững lại nhìn thấy một cái bàn gỗ thấp bé kê sát vệ đường. Trên cái bàn bày khung ảnh của một cụ già, mấy cái vỏ ốc, một bình hoa tươi và mấy cục đá. Tôi dừng chân ngắm nghía và đoán cái bàn ấy là góc tưởng nhớ về ai đó. Cái bàn chắc phải liên quan đến người ở trong ngôi nhà gỗ nhỏ, rủ bóng hoa ngay phía sau nó. Không phải nghi hoặc lâu, người hàng xóm của ngôi nhà gỗ thấy tôi dừng bước bèn tiến đến nói chuyện. Thì ra, đó là cái bàn tưởng niệm mà hàng xóm làm để nghĩ về cụ ông trong bức ảnh. Ông là một thầy giáo dạy tiếng Anh, vẫn chăm chỉ làm việc cho tới trước khi gặp một cơn đột quỵ và qua đời không lâu sau đó. Hai ông bà không có con cái nên sau khi ông ra đi, người vợ già sống một mình quạnh hiu. Hàng xóm thương hai cụ nên dựng góc tưởng niệm này để yên ủi cụ bà những ngày còn lại. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy cái bàn tưởng niệm ấy, cụ ông mới mất vài tuần. Một năm sau tôi quay lại, những món đồ đã có dấu vết mưa nắng, song vẫn ở đó, ấm tình người!
           Bạn đã bao giờ nghe thấy những lời vệ cỏ, như tôi đã từng? Còn tôi, tự cảm thấy hạnh phúc và may mắn được chậm rãi sống và lắng nghe vệ cỏ. Một lần đi chơi ở San Francisco, ngồi trên xe ô tô, tôi nhìn thấy một ông già râu tóc xồm xoàm, áo quần luộm thuộm đứng bên đường cầm cái biển viết nguệch ngoạc mấy chữ: You woke up, so smile! (Bạn đã thức dậy, thế thì hãy cười đi!). Và miệng ông cười rất tươi, như thể đang làm mẫu cho cái khẩu hiệu của ông. Chắc chắn ông không làm thế để xin tiền, vì ông đứng bên một vệ cỏ cách xa đường xe chạy. Ở đó, không ô tô nào có thể dừng, dù họ có muốn cho ông tiền đi nữa. Tôi, vốn tin vào những lời vệ cỏ thì đã nghĩ rằng, ông là một hiện thân của những vệ cỏ tôi từng qua. Những vệ cỏ luôn đầy ắp suy tư và vô cùng hào phóng kể những câu chuyện của mình cho những khách bộ hành biết bước chậm.
            Viết đến đây, tôi lại nhớ câu chuyện về một hình tròn hoàn hảo, cứ nghĩ mình hoàn hảo và hạnh phúc cho đến khi nó bị vỡ mất một miếng. Từ đó, nó không lăn nhanh trên đường được nữa, nó chạy chậm hơn vì hụt hẫng và khúc khuỷu do miếng vỡ mang đến. Nhưng cũng nhờ đó, nó nhìn thấy được nhiều thứ xung quanh trước đây chưa từng thấy vì lăn quá nhanh. Nó hiểu ra, lúc này, cùng với mảnh vỡ, nó mới thật là hạnh phúc!
Cũng như tôi, khi bước chậm lại trên đường, tôi luôn thấy mình là người hạnh phúc. Cảm ơn, những vệ cỏ của đời tôi!

Ảnh: Bàn tưởng niệm cụ giáo già (sau 1 năm gặp lại, ảnh chụp ngày 27/5/2015)

Berkeley của tôi

Mùa xuân tới, tôi sẽ rời Berkeley... Và tôi đã bắt đầu nhớ Berkeley từ những ngày đầu thu lá đổi màu day dứt, tôi đã hoài thương Berkeley như hoài thương một cố nhân ngay trong những giây phút mặn nồng yêu đương giữa lòng thành phố quyến hoặc, dịu dàng bên bờ vịnh San Francisco này.  Bằng những dự cảm xao xác của một tình yêu quá độ, tôi đã thấy tôi ở mùa xuân sau đang ngoái đầu ngoảnh lại luyến nhớ Berkeley - thành phố đã giữ cho tôi 3 năm trời kỉ niệm về những tháng ngày đầu tiên trên xứ sở cờ hoa.
Tôi sẽ nhớ những ngày đầu tiên bỡ ngỡ trong thành phố mới, vác bụng bầu nhấp nhổm nằm trong khách sạn cùng con gái chờ chồng chạy khắp nơi lo ổn định nhà cửa. Nhớ nỗi ngao ngán chán chường khi lần đầu tiên bước chân vào cái nhà sẽ ở, thấy trống hoác trống huơ chưa có tí đồ đạc gì. Nhớ những buổi bế bụng lang thang mệt nhoài mà hạnh phúc tự tay chọn mua từng món đồ nội thất. Nhớ niềm vui ấm áp trong căn bếp nhỏ, khi được nấu bữa cơm đầu tiên bằng nồi chảo mới tinh. Nhớ bao nỗi niềm ngổn ngang chưa kịp xếp thu gọn gàng vì những bận rộn của đời sống mới.
Tôi sẽ nhớ lắm căn nhà hai phòng ngủ bé xíu và một mảnh vườn con con có giá thuê cắt cổ ở thành phố đắt đỏ Berkeley – nơi tôi đã đón đứa con thứ hai sau hai tháng đặt chân lên đất Mỹ, nơi đầy ắp tiếng khóc cười thơ trẻ, nơi mỗi ngóc ngách đều hiện diện tình yêu gia đình. Tôi sẽ nhớ những buồn vui giận hờn chồng vợ, những tủi khổ với quê xa, những đêm rất dài nằm mộng thấy khu vườn cũ...
Có một lần, anh bạn Việt kiều sống ở San Francisco nghe tôi giới thiệu mình sống ở Berkeley đã thốt lên: ở đó thì chán chết! Tôi cười im, không nói năng gì, chỉ nghĩ thầm: tiếc cho anh đã không có cơ hội được Berkeley chào đón.
Tôi sẽ không quên cú điện thoại (vào một đêm đang lang thang ngắm nghía đồ ăn Á Đông ở chợ 99) mời đi dự tiệc Tết từ chị Nguyệt Cầm. Đó là cú điện thoại đầu tiên tôi nhận được từ một người bạn Việt Nam ở Berkeley – một người bạn ấm áp mà càng ở lâu tôi càng muốn gần, càng biết nhiều càng yêu quý. Tôi cũng chẳng quên mùi vị món gà kho gừng chị nấu gửi cho tôi những ngày tôi ở cữ. Rồi phở, bún... thi thoảng cũng được chị gói ghém gửi đến tận nhà, để một đứa mới xa nhà vừa ăn vừa rưng rưng vui. Với tôi, chị là định nghĩa đẹp đẽ đầu tiên về Berkeley.
Tôi thường nói đùa với mọi người, tôi sẽ sẵn sàng đi bất kì đâu trên nước Mỹ không nao núng, miễn là tôi biết rằng, ở đó, sẽ có một căn bếp như căn bếp của chị Nguyệt Cầm đang đón đợi. Căn bếp cứ dăm bữa nửa tháng lại rộn ràng xào nấu những món ăn Việt Nam, lại ấm tiếng cười trêu của bạn bầu quen thương khắp vùng Bay area đổ về tụ họp. Tôi sẽ nhớ những đêm trăng sáng đàn hát vang lừng trên đồi Berkeley, nhớ cảm giác thơ thới dưới sương khuya sau một cuộc hát thâu đêm, nhớ chếnh choáng thơm men rượu mận mấy chị em uống một lúc cả chai mà đố ai say nổi. Những hạnh ngộ vui tươi ở Berkeley, tôi sẽ giữ bên mình suốt hành trình sắp tới, bởi tôi vẫn tâm niệm ai là bạn mình, sẽ là bạn đời bạn kiếp, dẫu không được ở gần nhau.
Những ngày này là những ngày dằng dặc nhớ thương Berkeley, nên tôi tự cho phép mình nhẩn nha thêm một chút trên những con phố quen, thơ thẩn tìm đến vài ba cửa tiệm ưa thích chỉ để tán gẫu với mấy người bán hàng như những người bạn tôi sắp xa. Tôi kiếm cớ tụ bạ mấy cô bạn đồng cảnh ngộ lấy chồng xa, mấy người bạn tha phương đến từ những đất nước tôi chỉ biết đến trên bản đồ, chỉ để giữ lại thật nhiều yêu mến. Những người bạn ấy là một phần Berkeley trong tôi – phần yêu dấu nhất, sâu đậm nhất.
Nơi tôi sẽ đến, liệu có chút nào giống Berkeley phóng khoáng, cởi mở mà vẫn hiền hoà, tự nhiên – thành phố của giao thoa và những chuyển tiếp văn hoá bên bờ vịnh xinh đẹp Bắc Cali? Liệu những người tôi sẽ gặp trên những con đường mới ở thành phố lạ sắp tới có sẵn lòng tặng tôi một nụ cười không toan tính? Liệu ở nơi chốn tương lai ấy, người ta có đón nhận một cô gái da vàng như cách Berkeley đã nồng hậu đón nhận tôi? Dẫu vẫn đang sống những ngày gom kí ức còn lại ở Berkeley, tôi đã bắt đầu tự hỏi mình về nơi chốn mới, những câu hỏi khó tránh khỏi các trạng từ so sánh, mà trong đó, Berkeley vẫn là cái vế câu trĩu nặng...

Tôi biết mình chưa có câu trả lời về tương lai, nhưng tôi cũng biết tôi đã sẵn có câu trả lời cho tâm thế ở tương lai. Tôi sẽ mang theo tình yêu Berkeley, mang theo tất cả những bài học vỡ lòng thấm thía đầu tiên về xứ sở cờ hoa tôi đã học ở thành phố này để chào Berkeley đi đến vùng đất mới. Tôi sẽ mỉm cười với những người tôi gặp trên phố, như một người Berkeley thực thụ. Nếu ai đó có hỏi gia đình tôi đến từ đâu, tôi sẽ trả lời: chúng tôi đến từ Berkeley. Berkeley của tôi!!!
(Khởi viết Mùa thu 2014 - đầu hè 2015)
Ảnh: Căn bếp của chị Nguyệt Cầm