Đó là một chiếc ly
không lấy gì làm đặc biệt, ngoài đôi ba vân hoa giản dị khắc trên thành ly – những
vết khắc mà tôi chỉ nhớ bằng xúc giác vì hầu như không để mắt đến chúng, trong
lần nâng ly đầu tiên. Tôi đã tình cờ cầm chiếc ly ấy trong tay trong bữa cơm tối
sum họp cuối năm với bố mẹ chồng giữa một đêm mưa tầm tã ở ngoại ô New York.
Tối hôm đó, bố chồng
tôi trịnh trọng mở một chai champange để mừng gia đình đoàn viên và mừng mọi
thành viên trong nhà đã hoàn thành được nhiều việc lớn. Sau những giây phút nói
cười rộn rã, ông trầm ngâm nâng ly rượu lên ngắm nghía, rồi thủ thỉ kể chuyện lịch
sử gia đình. Chiếc ly là một chứng nhân cho lịch sử ấy.
Nó là một chiếc ly
pha lê hình phễu nhỏ nằm trong bộ ly sáu chiếc và hầu như không có nét gì nổi bật
so những ly tách sang trọng khác trong nhà. Nhưng đó lại là bộ ly được bố mẹ chồng
tôi nâng niu trân quý nhất. Chiếc ly ấy cùng nhiều đồ gia dụng khác đã theo
chân ông bà nội của chồng tôi lênh đênh trên tàu biển trong suốt một hải trình
dài di cư từ Đức sang Mỹ cách đây gần 77 năm.
Chiếc ly ấy cùng những
đồ gia dụng khác lẽ ra đã không phải di chuyển đi đâu cả, nếu ông bà nội của chồng
tôi không đi nghỉ ở Hà Lan vào mùa xuân năm 1938. Ông nội là một bác sĩ giỏi ở
Đức, lúc đó có một gia đình nhỏ với vợ và hai con trai. Trước khi đi nghỉ ở Hà
Lan, ông chưa từng nghĩ đến việc đi ra khỏi nước Đức – nơi tổ tiên người Do
Thái của ông đã chọn dừng định cư sau rất nhiều lần lang bạt di cư khắp Châu
Âu. Mùa xuân năm đó, ông bà nội đưa hai
con trai đi nghỉ ở Hà Lan và kinh ngạc nhận ra tình hình tồi tệ ở nước Đức lúc
bấy giờ khi đọc báo chí Hà Lan. Rất nhiều khi, người ta chỉ có thể nhận ra thực
tế đáng sợ xung quanh khi đã thoát ra khỏi cái lồng yên ổn vẫn sống hàng ngày.
Dù kì nghỉ đã không hoàn thành được nhiệm vụ hàng đầu là giúp cả nhà nghỉ ngơi
nhưng nó lại là sự kiện thúc đẩy một quyết định sống còn cho cả gia đình. Ông nội
lập tức ra quyết định rời khỏi nước Đức càng sớm càng tốt, trước khi cả gia
đình bị nghiền nát trong cỗ cối xay Holocaust của quân Phát xít.
Mùa thu năm 1938,
chiếc ly tôi cầm trong tay giữa đêm mưa New York ấy đã cùng với ông bà nội rời
khỏi Đức, trong một hành trình cố tình kéo dài qua Thuỵ Sỹ, Pháp rồi mới đến
Anh xuất cảng đi Boston. Theo luật di cư thời đó ở Đức, những người di cư không
được phép mang quá 10 đô la tiền mặt một người mỗi ngày trong hành trình đến
vùng đất mới. Đó là lí do mà ông bà nội đã phải tìm cách kéo dài hành trình với
cung đường dài nhất bằng việc ghé thăm tất cả họ hàng ở Châu Âu trước khi thực
sự đến Anh để lên tàu đi Mỹ. Cũng theo luật di cư, họ được phép mang các đồ đạc
gia dụng đi theo, bởi vậy sau khi quay trở về từ kì nghỉ ở Hà Lan, ông bà nội tất
bật lên danh sách những món đồ sẽ mang theo chuyến di cư để những người quản lí
việc di cư ở Đức thời đó kiểm tra trước khi chấp thuận. Chiếc ly nhỏ đã may mắn
nằm trong danh sách ấy và sang Mỹ trót lọt cùng với những giường, tủ, bàn làm
việc, nồi niêu xoong chảo, bát đĩa...
Lênh đênh trên biển suốt mấy tuần, cuối cùng,
cả gia đình đã cập bến Boston an toàn cùng tất cả đồ đạc và một khoản tiền mặt
không nhiều nhặn gì. Chiếc ly mỏng manh tôi cầm trên tay may sao cũng đến Mỹ
lành nguyên không sứt mẻ. Bắt đầu một cuộc sống mới với cả một gia đình phải lo
toan, ông nội chọn cách vừa đi học để lấy lại bằng bác sĩ ở Mỹ, vừa kiếm việc
lao động chân tay ở một bệnh viện nhỏ trong vùng để nuôi gia đình. Có lẽ, chiếc
ly nhỏ cùng những đồ đạc thân quen đã vượt đại dương trong hành trình di cư của
gia đình mùa thu năm đó đã phần nào mang lại chút cảm giác thân thuộc, ấm áp
cho những người phải đột ngột quyết định rời khỏi mảnh đất gắn bó để sống tiếp ở
một nơi xa lạ. Ít nhất, bà nội vẫn sẽ nấu cơm bằng những nồi niêu bà từng dùng ở
Đức, dù những bữa cơm trong những ngày tháng đầu tiên trên đất Mỹ có thể đạm bạc
hơn thuở ở quê nhà. Ông nội vẫn có thể nhấm nháp chút rượu vang bằng chiếc ly
quen trong những ngày đông lạnh giá để hồi tưởng đến những ngày sung túc chưa
xa trước cuộc di cư, để gắng gầy dựng lại sự nghiệp trên đất mới.
Tôi thảng thốt ngắm
lại chiếc ly nhỏ trong tay khi nghĩ về những trải nghiệm thời gian và không
gian của nó, kinh ngạc thấy những vân hoa vẫn sắc nét bất chấp thời gian, bất
chấp những va chạm và cầm nắm từng trải qua trong quãng sống bằng cả một kiếp
người. Chiếc ly nhỏ bỗng sáng bừng ánh sáng kỉ niệm và kí ức. Tôi không dám
hình dung điều gì đã xảy ra nếu chiếc ly này không có mặt ở đây - trên tay tôi,
nếu nó đã ở lại nước Đức một thời nằm trong tay quân Phát xít. Có lẽ ông nội của
chồng tôi cũng đã từng có những từ khước hình dung như tôi, khi quyết định bỏ lại
toàn bộ nhà cửa đất đai sản nghiệp để ra đi, đến một chân trời lạ.
Nhìn sâu xuống đáy
ly hình chóp, tôi tự hỏi: bao nhiêu mùi rượu đã đi qua? Bao nhiêu tay cầm, bao
nhiêu môi nhấp? Bao nhiêu ngụm buồn, bao nhiêu ngụm vui? Bao nhiêu hơi cay, bao
nhiêu men đắng? Bao nhiêu cực nhọc tủi hờn đã đi qua, bao nhiêu nỗi niềm của những
phận người bị con sóng lịch sử quăng xa khỏi nơi chôn rau cắt rốn đã đóng cặn
vào đáy cốc?
Soi mắt nhìn mưa đêm
qua thành ly mỏng mảnh, lòng tôi bỗng dễ vỡ như pha lê.
Thật xúc động. Con người cũng như cái ly đã phải trải qua bao nhieu biến cố lịch sử, dù ở đâu trên Trái Đất này....
ReplyDelete