Tuesday, January 13, 2015

Số phận một chiếc ly

Đó là một chiếc ly không lấy gì làm đặc biệt, ngoài đôi ba vân hoa giản dị khắc trên thành ly – những vết khắc mà tôi chỉ nhớ bằng xúc giác vì hầu như không để mắt đến chúng, trong lần nâng ly đầu tiên. Tôi đã tình cờ cầm chiếc ly ấy trong tay trong bữa cơm tối sum họp cuối năm với bố mẹ chồng giữa một đêm mưa tầm tã ở ngoại ô New York.
Tối hôm đó, bố chồng tôi trịnh trọng mở một chai champange để mừng gia đình đoàn viên và mừng mọi thành viên trong nhà đã hoàn thành được nhiều việc lớn. Sau những giây phút nói cười rộn rã, ông trầm ngâm nâng ly rượu lên ngắm nghía, rồi thủ thỉ kể chuyện lịch sử gia đình. Chiếc ly là một chứng nhân cho lịch sử ấy.
Nó là một chiếc ly pha lê hình phễu nhỏ nằm trong bộ ly sáu chiếc và hầu như không có nét gì nổi bật so những ly tách sang trọng khác trong nhà. Nhưng đó lại là bộ ly được bố mẹ chồng tôi nâng niu trân quý nhất. Chiếc ly ấy cùng nhiều đồ gia dụng khác đã theo chân ông bà nội của chồng tôi lênh đênh trên tàu biển trong suốt một hải trình dài di cư từ Đức sang Mỹ cách đây gần 77 năm.
Chiếc ly ấy cùng những đồ gia dụng khác lẽ ra đã không phải di chuyển đi đâu cả, nếu ông bà nội của chồng tôi không đi nghỉ ở Hà Lan vào mùa xuân năm 1938. Ông nội là một bác sĩ giỏi ở Đức, lúc đó có một gia đình nhỏ với vợ và hai con trai. Trước khi đi nghỉ ở Hà Lan, ông chưa từng nghĩ đến việc đi ra khỏi nước Đức – nơi tổ tiên người Do Thái của ông đã chọn dừng định cư sau rất nhiều lần lang bạt di cư khắp Châu Âu.  Mùa xuân năm đó, ông bà nội đưa hai con trai đi nghỉ ở Hà Lan và kinh ngạc nhận ra tình hình tồi tệ ở nước Đức lúc bấy giờ khi đọc báo chí Hà Lan. Rất nhiều khi, người ta chỉ có thể nhận ra thực tế đáng sợ xung quanh khi đã thoát ra khỏi cái lồng yên ổn vẫn sống hàng ngày. Dù kì nghỉ đã không hoàn thành được nhiệm vụ hàng đầu là giúp cả nhà nghỉ ngơi nhưng nó lại là sự kiện thúc đẩy một quyết định sống còn cho cả gia đình. Ông nội lập tức ra quyết định rời khỏi nước Đức càng sớm càng tốt, trước khi cả gia đình bị nghiền nát trong cỗ cối xay Holocaust của quân Phát xít.
Mùa thu năm 1938, chiếc ly tôi cầm trong tay giữa đêm mưa New York ấy đã cùng với ông bà nội rời khỏi Đức, trong một hành trình cố tình kéo dài qua Thuỵ Sỹ, Pháp rồi mới đến Anh xuất cảng đi Boston. Theo luật di cư thời đó ở Đức, những người di cư không được phép mang quá 10 đô la tiền mặt một người mỗi ngày trong hành trình đến vùng đất mới. Đó là lí do mà ông bà nội đã phải tìm cách kéo dài hành trình với cung đường dài nhất bằng việc ghé thăm tất cả họ hàng ở Châu Âu trước khi thực sự đến Anh để lên tàu đi Mỹ. Cũng theo luật di cư, họ được phép mang các đồ đạc gia dụng đi theo, bởi vậy sau khi quay trở về từ kì nghỉ ở Hà Lan, ông bà nội tất bật lên danh sách những món đồ sẽ mang theo chuyến di cư để những người quản lí việc di cư ở Đức thời đó kiểm tra trước khi chấp thuận. Chiếc ly nhỏ đã may mắn nằm trong danh sách ấy và sang Mỹ trót lọt cùng với những giường, tủ, bàn làm việc, nồi niêu xoong chảo, bát đĩa...
 Lênh đênh trên biển suốt mấy tuần, cuối cùng, cả gia đình đã cập bến Boston an toàn cùng tất cả đồ đạc và một khoản tiền mặt không nhiều nhặn gì. Chiếc ly mỏng manh tôi cầm trên tay may sao cũng đến Mỹ lành nguyên không sứt mẻ. Bắt đầu một cuộc sống mới với cả một gia đình phải lo toan, ông nội chọn cách vừa đi học để lấy lại bằng bác sĩ ở Mỹ, vừa kiếm việc lao động chân tay ở một bệnh viện nhỏ trong vùng để nuôi gia đình. Có lẽ, chiếc ly nhỏ cùng những đồ đạc thân quen đã vượt đại dương trong hành trình di cư của gia đình mùa thu năm đó đã phần nào mang lại chút cảm giác thân thuộc, ấm áp cho những người phải đột ngột quyết định rời khỏi mảnh đất gắn bó để sống tiếp ở một nơi xa lạ. Ít nhất, bà nội vẫn sẽ nấu cơm bằng những nồi niêu bà từng dùng ở Đức, dù những bữa cơm trong những ngày tháng đầu tiên trên đất Mỹ có thể đạm bạc hơn thuở ở quê nhà. Ông nội vẫn có thể nhấm nháp chút rượu vang bằng chiếc ly quen trong những ngày đông lạnh giá để hồi tưởng đến những ngày sung túc chưa xa trước cuộc di cư, để gắng gầy dựng lại sự nghiệp trên đất mới.
Tôi thảng thốt ngắm lại chiếc ly nhỏ trong tay khi nghĩ về những trải nghiệm thời gian và không gian của nó, kinh ngạc thấy những vân hoa vẫn sắc nét bất chấp thời gian, bất chấp những va chạm và cầm nắm từng trải qua trong quãng sống bằng cả một kiếp người. Chiếc ly nhỏ bỗng sáng bừng ánh sáng kỉ niệm và kí ức. Tôi không dám hình dung điều gì đã xảy ra nếu chiếc ly này không có mặt ở đây - trên tay tôi, nếu nó đã ở lại nước Đức một thời nằm trong tay quân Phát xít. Có lẽ ông nội của chồng tôi cũng đã từng có những từ khước hình dung như tôi, khi quyết định bỏ lại toàn bộ nhà cửa đất đai sản nghiệp để ra đi, đến một chân trời lạ.
Nhìn sâu xuống đáy ly hình chóp, tôi tự hỏi: bao nhiêu mùi rượu đã đi qua? Bao nhiêu tay cầm, bao nhiêu môi nhấp? Bao nhiêu ngụm buồn, bao nhiêu ngụm vui? Bao nhiêu hơi cay, bao nhiêu men đắng? Bao nhiêu cực nhọc tủi hờn đã đi qua, bao nhiêu nỗi niềm của những phận người bị con sóng lịch sử quăng xa khỏi nơi chôn rau cắt rốn đã đóng cặn vào đáy cốc?

Soi mắt nhìn mưa đêm qua thành ly mỏng mảnh, lòng tôi bỗng dễ vỡ như pha lê.

Đạo Hồi và định kiến

Vụ thảm sát đẫm máu khiến 12 người thiệt mạng ở toà báo Charlie Hebdo vào ngày 7/1 kinh động toàn thế giới. Những kẻ khủng bố đã bị tiêu diệt. Nước Pháp thở phào, tháp Eiffel lại thắp đèn giữa Kinh đô Ánh sáng. Nhưng biết bao nhiêu câu hỏi vẫn còn treo lơ lửng trên đầu những người có lương tri.
Vẫn còn đó một đám đông phẫn nộ. Vẫn còn đó những xung đột dai dẳng giữa con người với con người ẩn nấp sau bức màn tôn giáo và tự do. Vẫn còn đó những cực đoan nhân danh tôn giáo. Vẫn còn đó, ngổn ngang giữa những bạo lực và bạo loạn, một nỗi sợ hãi kinh hoàng của con người - nỗi sợ hãi phải sống trong một thế giới quá nhiều định kiến.
         Khi đọc những dòng tin tức về thảm kịch xảy ra ở Paris, tôi không khỏi có những giây phút ngược trở về với cái định kiến ngây ngô từng nằm sẵn trong đầu về mối dây liên hệ giữa đạo Hồi và khủng bố, sau bao nhiêu bận sửng sốt đọc tin về các vụ khủng bố của nhóm Hồi giáo cực đoan nào đó hoặc những tin tức về Nhà nước Hồi giáo ISIS. Cho đến cách đây vài ba tháng, trước khi thực sự có một người bạn theo đạo Hồi, tôi vẫn thường hồ nghi những chiếc khăn trùm đầu hijab và có ý né tránh những người Hồi giáo nếu tình cờ thấy họ trên phố. Tôi sợ - nỗi sợ bắt nguồn từ định kiến cố hữu do thiếu hiểu biết. Cũng vì sợ hãi, tôi hầu như đã đóng sập cánh cửa giao tiếp với người theo đạo Hồi, tự nhốt mình trong sự tối tăm của định kiến và bảo thủ.
         Tôi đã sống trong định kiến mù tối như thế mà không hề hay biết cho đến cách đây vài ba tháng, tôi tình cờ được xếp chung nhóm với Ben - một chàng trai trẻ người Uzbekistan trong lớp học tiếng Anh ở một trường Cao đẳng. Khi biết Ben là người Hồi giáo, tôi không khỏi có chút e ngại trong giao thiệp nhưng càng tiếp xúc, tôi càng nhận ra cái định kiến ngớ ngẩn bấy lâu nay của mình.
 Chàng trai mới bước qua ngưỡng tuổi 20 ấy đã khiến tôi từ chỗ e dè trở nên khâm phục khi biết rằng, cậu nuôi giấc mơ sang Mỹ học hành từ thời phổ thông. Khi đã một mình sang đến Mỹ, cậu vừa đi học, vừa đi làm toàn thời gian để kiếm tiền trang trải chi phí học hành và sinh hoạt. Công việc lái xe đưa đón bệnh nhân ở một bệnh viện tại San Francisco khiến cậu phải dậy từ lúc 5 giờ sáng. Ngày đi làm, tối đi học nhưng Ben không bao giờ quên cầu nguyện 5 lần một ngày vì cậu tôn thờ đấng tiên tri Muhammad và vô cùng sùng đạo. Thứ 6 hàng tuần - nhân ngày được nghỉ việc, cậu dành 2 tiếng đồng hồ đến nghe giảng đạo ở một nhà thờ Hồi giáo. Ben đã vô cùng sửng sốt khi nghe tôi bảo rằng tôi là người vô thần. Cậu ra sức “giảng đạo” cho tôi và thậm chí còn thuyết phục tôi đi thăm nhà thờ Hồi giáo cùng với cậu.
Nhờ theo chân Ben, tôi đã tự mở ra một cánh cửa cho riêng mình, sau hai tiếng đồng hồ phải trùm khăn hijab như người Hồi giáo, ngồi khép nép nghe một thầy tu đạo Hồi rao giảng kinh Cô-ran, giữa những người phụ nữ hoàn toàn xa lạ. Một phụ nữ tên là Fayza sau khi nghe người cai quản thánh đường giới thiệu tôi là người đến tìm hiểu về đạo Hồi đã tận tình lấy giúp khăn trùm đầu và hướng dẫn, giải thích các hành động nghi lễ trong giờ nghe giảng đạo. Tôi nhớ nụ cười xoà vô tư của Fayza khi thấy một đôi lần, do không biết, tôi vô tình thất thố với những người xung quanh khi họ đang khấn nguyện.
 Dù không thay đổi được thực tế rằng tôi vẫn là một người vô thần, Ben và những người phụ nữ Hồi giáo sùng đạo tôi gặp ngày hôm ấy đã giúp tôi phá bỏ định kiến về đạo Hồi và những ngộ nhận về mối quan hệ giữa đạo Hồi và khủng bố. Tôi hiểu rằng: đạo Hồi không (nên) được định nghĩa bằng bạo lực và khủng bố.
Một lần, trong khi tranh luận về việc Đức Chúa Trời có tồn tại hay không, Ben vui miệng kể cho tôi nghe câu chuyện rằng: trong một lớp học, ông thầy giáo vô thần khăng khăng khẳng định làm gì có Chúa ở trên đời. Thấy mắt học trò nghi hoặc, ông hỏi: Chúa ở đâu, các trò chỉ cho tôi. Trong lớp học này, tôi chỉ thấy sự hiện diện của tôi và các trò mà thôi. Một cậu học trò đứng lên hỏi: Thưa thầy, tôi xin hỏi thầy, trí não của thầy ở đâu, suy nghĩ của thầy ở đâu? Tôi không nhìn thấy nó. Như thế nghĩa là thầy không có não, không có suy nghĩ phải không? Tương truyền, người học trò đó chính là nhà bác học Einstein.

Tôi nhớ đến câu chuyện của Ben khi nghĩ đến định kiến vô hình về người Hồi giáo của mình. Nếu chúng ta xoá bớt đi những định kiến vô hình, nhất là những định kiến bắt nguồn từ sự khước từ học hỏi, khước từ cảm thông, khước từ bao dung, có lẽ đời sống này sẽ dễ dàng hơn, thế giới này sẽ bình yên hơn chăng?
Bài đã đăng ở: http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/216409/tham-sat-paris--nhung-cau-hoi-treo-lo-lung.html

Làm bạn với quái vật

Một ngày, tôi bàng hoàng nhận được thư của các cô giáo ở trường mầm non của con thông báo một cô bé trong lớp mới phát hiện một khối u trong não và phải tiến hành phẫu thuật ngay. Trong lúc đang tràn ngập cảm xúc tiêu cực, tối hôm đó, cô con gái hơn 4 tuổi của tôi về nhà kể chuyện rằng ở trường, nó đã vẽ một tấm thiệp tặng cho cô bạn bị ốm. Khi tôi hỏi con vẽ gì tặng bạn, con hồn nhiên trả lời: con vẽ một con quái vật.
Tôi giật mình sợ hãi, trách con sao không vẽ cái gì đẹp hơn, ví dụ như bông hoa hay công chúa tặng bạn để rồi ngạc nhiên nghe câu trả lời của cô con gái nhỏ, rằng: mẹ đừng lo, con biết bạn ấy sẽ thích, vì đó là một con quái vật màu tím - màu yêu thích của bạn ấy.  Con cũng vẽ con nắm tay bạn ấy rồi cùng nắm tay con quái vật. À, hoá ra với con, quái vật không phải là thứ đáng sợ, nhất là khi nó được vẽ bằng màu con ưa thích. Quái vật cũng có thể là bạn của con, khi con dám vượt lên sợ hãi để cầm tay nó.
Ngẫm lại cách đối diện với một tình huống bất thường của chính mình và con gái, tôi nhận ra rằng, con trẻ thông thái và linh hoạt hơn rất nhiều. Có lẽ, khả năng phản ứng tích cực với hoàn cảnh ấy của con gái tôi một phần cũng là nhờ triết lý giáo dục phương Tây được phổ biến qua hình tượng quái vật, ma quỷ. Tôi nhận thấy ở Mỹ, các phim hoạt hình, các nhân vật của các chương trình dành cho trẻ em hầu hết đều mang dáng vẻ dị hợm khác thường (kiểu như nhân vật Yoda trong phim Stars War), được gọi tên là quái vật (nhân vật Quái vật bánh quy - Cokie Monster trong series truyền hình nổi tiếng Sesame Street chẳng hạn). Thế nhưng tính cách của chúng vô cùng đáng yêu, đối lập với vẻ bề ngoài đáng sợ.
Ban đầu, mới liếc qua, tôi thầm nghĩ sao người ta lại xây dựng toàn là các con vật lông lá, một mắt xấu xí thế kia cho trẻ con xem. Nhưng thấy bọn trẻ con hào hứng xem, rồi say mê các nhân vật trong hình hài quái vật đến độ đòi bố mẹ mua thú bông quái vật để ôm khi ngủ, tôi mới vỡ lẽ. Hoá ra, đó là một triết lí giáo dục của phương Tây. Cuộc đời không phải luôn là màu hồng và chỉ mang sắc diện đẹp xinh của công chúa, hoàng tử, cuộc đời rất nhiều khi mang hình thù quái vật. Vậy thì, thay vì né tránh và sợ hãi, ta nên học cách đánh bạn với nó, hiểu biết thêm về nó và nếu có thể thì yêu nó như đó là một phần đương nhiên của đời sống ta vậy.
Dường như cũng nhờ “đánh bạn” với những con quái vật, bọn trẻ con phương Tây có thêm cơ hội để nhìn cuộc đời bằng cái nhìn đa sắc. Một trong những cuốn sách yêu thích nhất của bọn trẻ nhà tôi là cuốn sách về trường học phù thuỷ. Cuốn truyện kể về một ngôi trường dành cho các cô nhóc, cậu nhóc học làm phù thuỷ, với sự dạy dỗ của một cô giáo phù thuỷ có cái mũi dài xinh đẹp. Điều thú vị là câu chuyện mô tả mọi thứ bằng cái nhìn khác lạ của thế giới phù thuỷ, ví dụ như một cô bé phù thuỷ rất hãnh diện vì có cái áo mới hình nhện rất xinh. Khi bị bạn phù thuỷ khác trêu chọc, biến chiếc áo thành áo hoa thì cô bé vô cùng giận dữ vì với phù thuỷ, áo hoa là áo xấu.
Câu chuyện dạy cho bọn trẻ cách nhìn thế giới bằng nhãn quan rộng mở, không áp đặt. Nó tập cho trẻ làm quen với lối tư duy đa chiều, để hiểu rằng: mỗi thế giới có một tiêu chuẩn khác nhau và cái đẹp trong thế giới phù thuỷ có thể hoàn toàn trái ngược với cái đẹp như chúng vẫn biết, vẫn quan niệm. Học về sự khác biệt để đón nhận những khác biệt (thậm chí bất thường) với tâm thế bình thản và sự tôn trọng cần thiết, đó là điều mà chính tôi đã học lỏm được từ cô con gái nhỏ và thế giới quái vật trong mắt con.
Tôi lớn lên trong một gia đình trí thức, vốn rất nghiêm khắc và luôn bảo vệ con cái bằng việc cách li chúng hoàn toàn khỏi những thực tế xấu xí. Điều đó khiến tôi - cho đến tận khi đã rời giảng đường đại học vẫn là một người quen nhìn mọi việc bằng cái nhìn thẳng đuột, một màu. Nhiều bậc cha mẹ ở Việt Nam vẫn giữ thói quen bao bọc con cái trong một thế giới tinh khiết, đẹp đẽ như cổ tích, nhưng thế giới vô trùng ấy lại là một thứ phản giáo dục bởi nó tạo ra những đứa trẻ cứng nhắc, thiếu linh hoạt và rất kém thích ứng với những phức tạp của đời sống xã hội.

Từ hôm nghe con gái kể về con quái vật màu tím con đã vẽ tặng bạn, tôi chủ động mở thêm một cánh cửa để quái vật bước vào đời sống của mình. Tôi cũng bắt đầu học cách nhìn những khó khăn trong đời như nhìn những con quái vật màu tím - một đối tượng có thể dị thường nhưng hoàn toàn có khả năng tiếp cận và làm quen, nếu biết mở lòng, mở mắt.
Bài đã đăng ở: http://vnexpress.net/tin-tuc/goc-nhin/lam-ban-voi-quai-vat-3127210.html